Trần Kinh Nghị
"Phép thử" dùng sức mạnh đã thất bại?
Tục ngữ nói nhiều về gió, như “gió chiều nào suôi chiều đó”, “gieo gió gặt bão”, “gió đông thổi bạt gió tây”, “đòn gió”, v.v… Có thể nói chuyến thăm Việt Nam và Thái Lan của Phó Chủ tịch nước TQ Tập Cận Bình mới đây cũng là một loại gió, và có lẽ cơn gió này nhằm ngăn chặn một cơn bão ngược chiều đang tích tụ từ chân trời, đó là sự trở lại của Mỹ tại khu vực châu Á –TBD mà trọng tâm là vành đai chạy từ Nhật Bản, Hàn Quốc xuống khối SEATO (cũ) liên kết với khối ANZUS ở phía Nam và Ấn Độ ở phía Tây.
Thông điệp của chuyến đi là khá rõ ràng: Với tư cách phó Chủ tịch nước, chuyến thăm lần này của ông Tập tuy không ồn ào, nhưng có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Đây là chuyến vi hành mở đầu của người sẽ cầm lái con thuyền Trung Quốc ít nhất trong một thập kỷ tới. Bắc Kinh chọn cơ hội này để phát đi tín hiệu về sự thay đổi chính sách đối với khu vực Châu Á-TBD, đặc biệt đối với Biển Đông, nơi mà biện pháp dùng “phép thử” bằng sức mạnh đã thất bại buộc họ phải điều chỉnh theo hướng ôn hòa hơn. Dấu hiệu có thể thấy ở sự lắng dịu tình hình Biển Đông gần đây với ít hơn các vụ quấy rối của tàu thuyền TQ trong khi Tân hoa xã chủ động đưa tin về chuyến thăm của ông Tập như một cử chỉ thân thiện. Một động thái đáng lưu ý khác là, phía TQ tuyệt nhiên không phản ứng gì trước lời tuyên bố chủ quyền của Thủ tướng Việt Nam với những từ ngữ cụ thể và nêu đích danh “Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974”, v.v… Khi ở thăm Việt Nam và Thái Lan ông Tập cũng không chủ động nêu vấn đề tranh chấp Biển Đông mà chỉ tập trung về hợp tác tài chính, thương mại, trong đó có việc cho VN vay 300 triêu USD, cho Thái Lan vay theo phương thức hoán đổi đồng tiền hai nước với trị giá 11 tỷ USD. Những cử chỉ trên hoàn toàn khác với những gì mà phía Trung Quốc thường thể hiện ttrong mấy năm qua.
Hiện tại còn quá sớm để khẳng định điều gì, nhưng rõ ràng đang có những động thái mới từ phía Bắc Kinh theo hướng ôn hòa. Có lẽ giới lãnh đạo nước này giờ đây đã thấm thía với lời khuyên của tiền nhân Đặng Tiểu Bình: Hãy “ẩn mình” trước khi đủ mạnh. Quả vậy, vừa qua họ đã quá nôn nóng muốn đạt mục tiêu bá chủ Biển Đông bằng cách phô trương lực lượng quá sớm, quá trắng trợn, và rốt cuộc đã tạo cớ cho quân đội Mỹ trở lại Châu Á –TBD nơi mà chính người TQ đã mất ½ thế kỷ để xua đuổi Mỹ đi. Có thể nói, không còn bài học nào thấm thía hơn thế đối với Bắc Kinh.
Láng giềng không bình đẳng
Có thể nói, cả hai bên TQ và VN đến nay đều thấu hiểu "bụng dạ” của nhau, chỉ còn vấn đề là lập trường của mỗi bên không dễ san bằng. Người TQ luôn tự coi mình là một dân tộc lớn, một nước lớn, và có sứ mệnh “do trời ban cho”. Cách tư duy này dù muốn hay không, luôn tác động trực tiếp đến chính sách đối ngoại của họ và cũng là nguyên nhân sâu xa của tư tưởng sô vanh nước lớn và chủ nghĩa bá quyền - điều mà tuy không được tuyên bố công khai nhưng vẫn luôn được dung túng tại nước này.
Hiện tại còn quá sớm để khẳng định điều gì, nhưng rõ ràng đang có những động thái mới từ phía Bắc Kinh theo hướng ôn hòa. Có lẽ giới lãnh đạo nước này giờ đây đã thấm thía với lời khuyên của tiền nhân Đặng Tiểu Bình: Hãy “ẩn mình” trước khi đủ mạnh. Quả vậy, vừa qua họ đã quá nôn nóng muốn đạt mục tiêu bá chủ Biển Đông bằng cách phô trương lực lượng quá sớm, quá trắng trợn, và rốt cuộc đã tạo cớ cho quân đội Mỹ trở lại Châu Á –TBD nơi mà chính người TQ đã mất ½ thế kỷ để xua đuổi Mỹ đi. Có thể nói, không còn bài học nào thấm thía hơn thế đối với Bắc Kinh.
Láng giềng không bình đẳng
Có thể nói, cả hai bên TQ và VN đến nay đều thấu hiểu "bụng dạ” của nhau, chỉ còn vấn đề là lập trường của mỗi bên không dễ san bằng. Người TQ luôn tự coi mình là một dân tộc lớn, một nước lớn, và có sứ mệnh “do trời ban cho”. Cách tư duy này dù muốn hay không, luôn tác động trực tiếp đến chính sách đối ngoại của họ và cũng là nguyên nhân sâu xa của tư tưởng sô vanh nước lớn và chủ nghĩa bá quyền - điều mà tuy không được tuyên bố công khai nhưng vẫn luôn được dung túng tại nước này.
Việt Nam do vị trí địa lý phải hứng chịu hậu quả của thứ chủ nghĩa bành trướng bá quyền truyền kiếp như vậy. Một số cuộc khảo sát quốc tế gần đây cho thấy đại đa số người TQ được hỏi tin rằng Biển Đông là của cha ông họ nhưng bị Việt Nam và các nước nhỏ xung quanh chiếm đoạt, và do đó bây giờ họ có quyền đòi lại là lẽ đương nhiên! Đó cũng là lý do tại sao có tới hơn 80% ý kiến tán thành “đánh” Việt Nam vì tội “xâm chiếm nhiều biển đảo của người Trung Quốc (!?)”. Được biết, trong dịp Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thămTQ, một quan chức TQ so sánh rằng nếu nhân dân VN biểu tình chống TQ thì hãy nghĩ xem điều gì sẽ xảy ra khi 1,3 tỷ dân TQ cũng biểu tình chống VN(?). Đó không phải là một sự so sánh, mà là một lời đe dọa! Đó là cách tư duy điển hình của người TQ, không chỉ về con người mà còn về sức mạnh kinh tế, quân sự, không chỉ đối với Việt Nam mà đối với tất cả các nước. Ở đâu họ thấy mình đông hơn, mạnh hơn là họ lấn lướt. Thế mới có chuyện họ chủ trương huy động số đông tàu thuyền để lấn chiếm ngư trường của Việt Nam và của các nước khác. Mới đây họ dùng thuyền đánh cá kết bè lại để đối phó với tàu tuần tra Hàn Quốc. Phải chung sống đời đời kiếp kiếp với một nước láng giềng như vậy, người Việt Nam đã hình thành một truyền thống mang tính đặc thù, đó là vừa phát huy tinh thần dân tộc quật cường, vừa phát huy tinh thần nhẫn nhục chịu đựng, để tồn vong trước một đối phương lúc nào cũng lăm le nuốt chửng mình. Đó là lý do mà lịch sử luôn hằn sâu dấu vết của điều trăn trở từ bao thế hệ người Việt: “Đánh hay hòa...hòa hay đánh... ?”. Đây chính là cái khó đối với dân tộc Việt Nam, cũng là cái khó đối với giới lãnh đạo đất nước trong bất cứ thời kỳ nào. Ta và đối phương đều có lúc thịnh lúc suy. Thời nào cũng có kẻ cơ hội bán nước cầu vinh. Nhưng hào kiệt thời nào cũng có. Và đó là bí quyết sinh tồn của dân tộc Việt Nam.
Phải giải tỏa trạng thái "bằng mặt không bằng lòng"
Trong chuyến thăm hữu nghị của Phó Chủ tịch Tập Cận Bình mới đây có một số động thái rất đáng lưu ý. Đó là trong khi phía khách không chủ động nêu vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo, thì phía chủ nhà đã chủ động nhắc lại vấn đề tranh chấp Biển Đông (cả trước và trong chuyến thăm). Đây là một động thái mới đáng nghiên cứu. Về hình thức, ta thấy một số hoạt động hưởng ứng chuyến thăm như cầu truyền hình, giao lưu thanh niên… nhưng chúng đã diễn ra một cách rời rạc, gượng gạo. Cũng thấy có sự chậm trễ trong việc đưa tin và những sai sót lễ tân như vụ “cờ TQ có 6 sao”,v.v… Suy cho cùng, những biểu hiện trên đây cho thấy ít nhiều tình trạng thiếu nhất quán giữa các cơ quan tổ chức sự kiện của phía Việt Nam. Còn những “lời hay ý đẹp” hai bên giành cho nhau trong chuyến thăm là điều dễ hiểu, không nên dựa vào đó để đánh giá thực chất vấn đề. Thực chất nằm trong lòng dân chúng khi họ quay lưng lại với khẩu hiệu “hữu nghị Việt –Trung”, thậm chí biểu thị thái độ bất tín, bất bình trước chủ trương quá mền mỏng của lãnh đạo mà họ cho là nhu nhược, hèn nhát... Tóm lại, với tất cả những dấu hiệu nêu trên, có thể nói đang hình thành sự khác biệt quan điểm trong nội bộ giới lãnh đạo và giữa Lãnh đạo với dân chúng liên quan đến quan hệ Việt-Trung, nỗi cộm là vấn đề chọn đối sách nào trước âm mưu bành trướng, lấn chiếm biển đảo từ phía nước láng giềng phương Bắc .
Những dấu hiệu phát ra từ chuyến thăm cho thấy phía Việt Nam vẫn lúng túng về đường lối và biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo của đất nước mặc dù chủ đề này như vẫn thường được nhắc đi nhắc lại và trong các văn kiện của Đảng và các diễn đàn Quốc hội và Chính phủ. Từ khi có phương châm “làm bạn với tất cả”, Việt Nam đã có nhiều thay đổi trong các lĩnh vực đối nội , đối ngoại, nhưng có lẽ chưa có sự thay đổi căn bản nào trong quan hệ với nước láng giềng phương Bắc. Trở lực chính có lẽ là do ý thức hệ đã ăn sâu bám rễ trong một bộ phận lãnh đạo và dân chúng. Đó là nguyên nhân vì sao bất chấp mọi hành động, thậm chí xâm phạm trắng trợn chủ quyền biển đảo từ phía đối phương, nhưng giới chức và truyền thông Việt Nam vẫn lặp đi lặp lại điệp khúc “vừa là đồng chí, vừa là anh em”, "láng giền tốt, đồng chí tốt"..., dù đó có là quan hệ bề ngoài theo kiểu “bằng mặt không bằng lòng” đi chăng nữa! Bất chấp mọi sự điều chỉnh chiến lược của TQ và các nước lớn, Việt Nam chưa hề có sự điều chỉnh đáng kể nào trong quan hệ với song phương với TQ. Nói cách khác “đường đi nước bước” của Việt Nam vẫn chưa thực sự rõ nét, và đó là một trong những nguyên nhân khiến Việt Nam đã để nhỡ mất nhiều cơ hội. Nhiều ý kiến khách quan của người ngoài và cả trong nội bộ lãnh đạo Việt Nam đều thừa nhận điều này. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến trạng thái “chênh vênh” trong thế trận của Việt Nam mỗi khi có sự cố tranh chấp lãnh thổ với ông bạn láng giềng phương Bắc? Bài học chiến tranh biên giới cùng hàng loạt các cuộc xung đột biển đảo đã chứng minh điều đó.
Phải chăng giờ đây cơ hội đồng thời với thách thức lại một lần nữa mở ra đối với Việt Nam. Cuộc đấu tranh còn ở phía trước, đó là một chặng đường dài đầy khó khăn phức tạp. Dư luận đã từng nhận xét rằng nếu đối phương công khai nóng vội dùng vũ lực xâm lược thì đó là một tình huống không mong muốn nhưng cũng là tình huống đơn giản đối với Việt Nam. Nếu đối phương sử dụng chiến thuật lâu dài bằng các thủ đoạn kinh tế và “diễn biến hòa bình” thì vấn đề khó khăn, phức tạp hơn. Và đây dường như là kịch bản mới đang bày ra đối với Việt Nam. Để đón nhận cơ hội và đối phó thách thức, có lẽ ngoài việc phát huy những bài học kinh nghiệm của bản thân, VN cần học kinh nghiệm của một số quốc gia nhỏ cận kề Trung Quốc như Hàn Quốc, Myanma, Thái Lan, và cả Đài Loan, Hồng Kông... là những quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhỏ yếu nhưng vẫn duy trì độc lập bình đẳng với TQ để phát triển kinh tế mạnh hơn cả TQ. Có hai bài học không bao giờ quên: Biển Đông bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa là cửa ngõ sống còn của Việt Nam không ai có quyền xây rào chắn lối; và muốn phát triển kinh tế, Việt Nam không thể quay lại với công nghệ của TQ .
Phải giải tỏa trạng thái "bằng mặt không bằng lòng"
Trong chuyến thăm hữu nghị của Phó Chủ tịch Tập Cận Bình mới đây có một số động thái rất đáng lưu ý. Đó là trong khi phía khách không chủ động nêu vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo, thì phía chủ nhà đã chủ động nhắc lại vấn đề tranh chấp Biển Đông (cả trước và trong chuyến thăm). Đây là một động thái mới đáng nghiên cứu. Về hình thức, ta thấy một số hoạt động hưởng ứng chuyến thăm như cầu truyền hình, giao lưu thanh niên… nhưng chúng đã diễn ra một cách rời rạc, gượng gạo. Cũng thấy có sự chậm trễ trong việc đưa tin và những sai sót lễ tân như vụ “cờ TQ có 6 sao”,v.v… Suy cho cùng, những biểu hiện trên đây cho thấy ít nhiều tình trạng thiếu nhất quán giữa các cơ quan tổ chức sự kiện của phía Việt Nam. Còn những “lời hay ý đẹp” hai bên giành cho nhau trong chuyến thăm là điều dễ hiểu, không nên dựa vào đó để đánh giá thực chất vấn đề. Thực chất nằm trong lòng dân chúng khi họ quay lưng lại với khẩu hiệu “hữu nghị Việt –Trung”, thậm chí biểu thị thái độ bất tín, bất bình trước chủ trương quá mền mỏng của lãnh đạo mà họ cho là nhu nhược, hèn nhát... Tóm lại, với tất cả những dấu hiệu nêu trên, có thể nói đang hình thành sự khác biệt quan điểm trong nội bộ giới lãnh đạo và giữa Lãnh đạo với dân chúng liên quan đến quan hệ Việt-Trung, nỗi cộm là vấn đề chọn đối sách nào trước âm mưu bành trướng, lấn chiếm biển đảo từ phía nước láng giềng phương Bắc .
Những dấu hiệu phát ra từ chuyến thăm cho thấy phía Việt Nam vẫn lúng túng về đường lối và biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo của đất nước mặc dù chủ đề này như vẫn thường được nhắc đi nhắc lại và trong các văn kiện của Đảng và các diễn đàn Quốc hội và Chính phủ. Từ khi có phương châm “làm bạn với tất cả”, Việt Nam đã có nhiều thay đổi trong các lĩnh vực đối nội , đối ngoại, nhưng có lẽ chưa có sự thay đổi căn bản nào trong quan hệ với nước láng giềng phương Bắc. Trở lực chính có lẽ là do ý thức hệ đã ăn sâu bám rễ trong một bộ phận lãnh đạo và dân chúng. Đó là nguyên nhân vì sao bất chấp mọi hành động, thậm chí xâm phạm trắng trợn chủ quyền biển đảo từ phía đối phương, nhưng giới chức và truyền thông Việt Nam vẫn lặp đi lặp lại điệp khúc “vừa là đồng chí, vừa là anh em”, "láng giền tốt, đồng chí tốt"..., dù đó có là quan hệ bề ngoài theo kiểu “bằng mặt không bằng lòng” đi chăng nữa! Bất chấp mọi sự điều chỉnh chiến lược của TQ và các nước lớn, Việt Nam chưa hề có sự điều chỉnh đáng kể nào trong quan hệ với song phương với TQ. Nói cách khác “đường đi nước bước” của Việt Nam vẫn chưa thực sự rõ nét, và đó là một trong những nguyên nhân khiến Việt Nam đã để nhỡ mất nhiều cơ hội. Nhiều ý kiến khách quan của người ngoài và cả trong nội bộ lãnh đạo Việt Nam đều thừa nhận điều này. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến trạng thái “chênh vênh” trong thế trận của Việt Nam mỗi khi có sự cố tranh chấp lãnh thổ với ông bạn láng giềng phương Bắc? Bài học chiến tranh biên giới cùng hàng loạt các cuộc xung đột biển đảo đã chứng minh điều đó.
Phải chăng giờ đây cơ hội đồng thời với thách thức lại một lần nữa mở ra đối với Việt Nam. Cuộc đấu tranh còn ở phía trước, đó là một chặng đường dài đầy khó khăn phức tạp. Dư luận đã từng nhận xét rằng nếu đối phương công khai nóng vội dùng vũ lực xâm lược thì đó là một tình huống không mong muốn nhưng cũng là tình huống đơn giản đối với Việt Nam. Nếu đối phương sử dụng chiến thuật lâu dài bằng các thủ đoạn kinh tế và “diễn biến hòa bình” thì vấn đề khó khăn, phức tạp hơn. Và đây dường như là kịch bản mới đang bày ra đối với Việt Nam. Để đón nhận cơ hội và đối phó thách thức, có lẽ ngoài việc phát huy những bài học kinh nghiệm của bản thân, VN cần học kinh nghiệm của một số quốc gia nhỏ cận kề Trung Quốc như Hàn Quốc, Myanma, Thái Lan, và cả Đài Loan, Hồng Kông... là những quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhỏ yếu nhưng vẫn duy trì độc lập bình đẳng với TQ để phát triển kinh tế mạnh hơn cả TQ. Có hai bài học không bao giờ quên: Biển Đông bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa là cửa ngõ sống còn của Việt Nam không ai có quyền xây rào chắn lối; và muốn phát triển kinh tế, Việt Nam không thể quay lại với công nghệ của TQ .
Nguồn: Blog Trần Kinh Nghị