Nguyễn Hùng, Lê Quang Long, Trần Hoài Nam (Danlambao) - Lịch
sử cổ đại và cận đại của Trung Quốc cho thấy dù Trung Quốc dưới chế độ
nào, quân chủ chuyên chế hay cộng sản độc tài, Trung Quốc luôn có ý đồ
bành trướng đại Hán, xâm lược và đồng hóa các nước nhỏ lân bang.
Với Việt Nam, lịch sử đã rất nhiều lần chứng minh ý đồ bành trướng đại
Hán qua suốt chiều dài lịch sử lập quốc và giữ nước của dân tộc Việt.
Từ năm 208 trước công nguyên đến năm 939, hơn 1000 năm Bắc thuộc, tổ
quốc Việt Nam bị nhiều triều vua Tàu lần lượt đô hộ. Họ dùng mọi phương
cách ác độc nhằm đồng hóa dân tộc Việt và biến nước Việt thành một tỉnh,
quận của Tàu. Từ thế kỷ thứ nhất Hai Bà Trưng khởi nghĩa giành độc lập
được 3 năm (40 - 43) thì bị nhà Hán đánh bại. Dân tộc Việt Nam luôn kiên
cường chống mọi dã tâm đồng hóa của quan quân đô hộ Tàu, giữ gìn bản
chất và phong tục cao quí của dân tộc Việt. Nhiều cuộc khởi nghĩa liên
tục nổi dậy đánh đuổi thực dân Tàu giành lại độc lập. Tiêu biểu có cuộc
nổi dậy của anh em Bà Triệu thời nhà Đông Ngô, năm 541 Lý Nam Đế khởi
nghĩa đánh đuổi nhà Lương giành độc lập, năm 550, Triệu Quang Phục đánh
bại nhà Lương, tiếp tục giữ được độc lập trong thời gian 30 năm. Nhà Tùy
và sau đó Đường trở lại đô hộ Việt Nam thêm hơn 300 năm. Từ năm 905,
sau khi Khúc Thừa Dụ tuyên bố tự chủ và Ngô Quyền đại thắng quận đội nhà
Hán tại “Bạch Đằng Giang” vào năm 939, Việt Nam mới thực sự có độc lập
và kéo dài hơn 900 năm, đến cuối thế kỷ 18, trong đó có 20 năm (đầu thế
kỷ 15) bị nhà Minh xâm chiếm đô hộ.
Trong suốt thời gian hơn 900 năm độc lập dựng nước và giữ nước, Việt Nam
luôn bị các triều đại bành trướng đại Hán phương Bắc tìm đủ mọi cách
đánh chiếm, hay xâm lấn. Dân tộc Việt Nam đã bao lần vừa chiến thắng
chống lại kẻ thù xâm lược phương Bắc vừa giữ gìn nguyên vẹn truyền thống
văn hóa phong tục Việt, chống lại mọi hình thức xâm thực văn hóa từ
phương Bắc nhằm đồng hoá dân tộc Việt.
Trước đây, dù dưới triều vua nào, triều đình và toàn dân không bao giờ
xem Tàu là nước láng giềng tốt, không là người bạn thân thiết với tình
nghĩa như anh em ruột thịt “môi hở răng lạnh” như tất cả những người
lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam luôn công khai tuyên bố. Những nhà
vua, lãnh đạo Việt Nam nào hèn yếu đi cầu cạnh, tùng phục Tàu để được
bảo vệ hay giúp cướp đoạt quyền lực đều đưa đến tai họa đất nước bị đô
hộ và nguy cơ bị Tàu đồng hóa như Trần Ích Tắc chạy sang cầu cứu nhà
Nguyên năm 1285, Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh năm 1789, và gần đây
hơn Hoàng Văn Hoan, đảng viên kỳ cựu cao cấp trong Bộ Chính Trị đảng
Cộng Sản và là một trong những nhân vật sáng lập đảng Cộng Sản Việt Nam,
chạy sang cầu cạnh Trung Cộng năm 1979, v.v...
Kinh nghiệm lịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc là một bài học bảo vệ tổ
quốc quí báu cho toàn dân, trước đây và nhất là hiện nay. Dầu cho Việt
Nam chỉ là một nước nhỏ dân ít nhưng đã nhiều lần anh dũng và kiên cường
đánh bại những lực lượng hùng mạnh và thiện chiến của nước Tàu đại Hán
phương Bắc. Trung Quốc từ ngàn năm nay không hề là một nước bạn láng
giềng tốt bụng như họ đang tuyên truyền qua câu chữ “16 chữ vàng và 4
tốt” mà thực chất là nước bá quyền hiểm độc, luôn chực chờ và sẵn sàng
nuốt chửng Việt Nam. Lý do chính làm cho đất nước Việt Nam vẫn tồn tài
sau hơn một ngàn năm bị Tàu đô hộ với nhiều âm mưu thâm độc nhằm đồng
hóa dân Việt của nhiều triều đại của Trung Hoa, đó là do Việt Nam có một
nền văn hoá đặc trưng của dân tộc Việt, phong tục thuần Việt, được gìn
giữ và trân quí ngay tại mọi thôn làng trên khắp đất nước.
Từ giữa thế kỷ 20 đến nay, mối họa của Việt Nam trước bá quyền đại Hán
Tàu đã và đang tái diễn. Việt Nam đang đứng trước mối hiểm họa bị Tàu
xâm lược và đồng hoá. Mối nguy hại tột cùng này là sự mù quáng của các
cấp lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam, và tệ hại nhất là văn hoá phong tục
Việt, mà người dân Việt nhờ vào đó để tồn tại và vươn lên trong suốt
thời gian dài hơn 1000 năm Bắc thuộc, đã và đang bị hủy hoại và bị thay
vào đó bởi một mớ tư tưởng ngoại lai của chủ nghĩa cộng sản ảo tưởng mà
từ đó tính linh thiêng và lòng yêu tổ quốc mà tiền nhân đã dày công vun
xới nhanh chóng bị xoá bỏ.
Chủ nghĩa cộng sản Mác Lê một thời được thịnh hành tại Âu Châu, thế kỷ
20 rồi được du nhập vào một số nước tại các châu lục khác trong đó có
Việt Nam, Trung Hoa, lợi dụng lòng yêu nước của dân chúng qua phong
trào đấu tranh giành độc lập, chống lại chế độ thực dân trong và sau thế
chiến thứ 2. Hệ quả của chủ nghĩa cộng sản là đại đa số người dân vẫn
tiếp tục bị áp bức, bóc lột, kỳ thị và phân biệt đối xử khốc liệt bởi
một nhóm thiểu số cầm quyền mới. Chỉ khác là chế độ cộng sản còn tệ hại,
vô nhân đạo và không có tình người đối với người dân bình thường hơn so
với tất cả các triều đại vua chúa khét tiếng ác độc của nước ta trước
kia. Chế độ cộng sản đẩy dân chúng vào tình trạng nghèo đói cơ cực, vô
sản đã đành nhưng tai hại nhất của chủ nghĩa cộng sản là nó hủy hoại
những phong tục đặc thù, tình tự và đạo đức dân tộc, tinh thần quốc gia,
mà nhờ vào đó dân tộc Việt Nam đã chống lại được dã tâm đồng hoá của bá
quyền đại Hán Tàu phương Bắc. Thay vào đó chỉ là lòng thù hận một mất
một còn giữa người và người chỉ vì sự khác biệt quan điểm chính trị,
chiêu bài đấu tranh giai cấp, tôn thờ ngoại bang, xoá bỏ biên giới quốc
gia. Trong chế độ cộng sản, ngoài việc tôn thờ cá nhân, điều tai hại là
lòng yêu quí Tổ quốc bị lu mờ mà thay vào đó là một thế giới công sản
không biên giới. Những lời tuyên truyền rêu rao “yêu nước là yêu chủ
nghĩa xã hội, yêu chủ nghĩa cộng sản” của người cộng sản chỉ là lời nói
mị dân, đánh đồng và là sự lừa gạt trắng trợn.
Qua thực tế mà đất nước và dân tộc Việt Nam đã từng trải nghiệm, 1954
-1975 tại miền Bắc và từ 1975 đến nay tại miền Nam, người cộng sản Việt
Nam không phải chiến đấu giải phóng giành tự do dân chủ cho tổ quốc hay
đồng bào mà họ chiến đấu cho thế giới cộng sản theo chỉ thị của cộng sản
quốc tế, trước kia do Nga nay do Trung Cộng lãnh đạo. Kêu gọi giải
phóng giành độc lập chỉ là một chiêu bài đường mật để lôi kéo và lợi
dụng những người yêu nước trung thực. Học tập và tuyên truyền tẩy não
theo chủ nghĩa cộng sản, những người cộng sản Việt Nam ngay từ thời kỳ
thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam trước 1945 cho đến gần đây luôn tôn
sùng phục vụ Cộng Sản Tàu, coi những người cộng sản Tàu là anh em ruột
thịt tin cẩn, coi Mao Trạch Đông là người thầy, là cha, là người lãnh
đạo tối cao của các đảng cộng sản. Trong thời kỳ chống Pháp và chiến
tranh quốc cộng Nam Bắc từ 1954 đến 1975, nhà nước cộng sản Việt Nam tại
miền Bắc luôn tôn thờ lãnh đạo và nước Tàu, luôn coi nước Tàu là hậu
phương tín cẩn, được Tàu cung cấp toàn bộ vũ khí và hậu cần để thực hiện
cuộc chiến nồi da xáo thịt tại miền Nam Việt Nam, trong khi đó đảng
cộng sản Tàu đứng ngoài làm "ngư ông đắc lợi". Vì tin mù quáng vào chủ
nghĩa cộng sản quốc tế là đưa đến thế giới đại đồng không còn biên giới
phân chia các nước cộng sản anh em, nên nhà nước cộng sản Việt Nam đã
từng sẵn sàng giao đất đai, biển đảo cho Trung Cộng trấn đóng trong thời
kỳ chiến tranh Bắc Nam. Trên thực tế, chủ nghĩa cộng sản quốc tế chỉ là
cái bánh vẽ do các nước cộng sản đàn anh tạo ra để cám dỗ và nuốt chửng
các nước nhỏ láng giềng. Tại Châu Âu, Nga lập ra Liên Bang Sô Viết để
thôn tính các nước nhỏ tại Trung Á. Tại Á Châu có Trung Cộng với dã tâm
xâm lược đại Hán từ ngàn xưa cũng sáp nhập những nước nhỏ vùng Tây Tạng,
Nội Mông, Bắc Ấn. Lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã xung phong làm những
tên lính cộng sản tiên phong chết thế trong trận chiến nhuộm đỏ toàn thế
giới. Sinh mạng của hằng triệu thanh niên và người dân Việt Nam đã phải
hy sinh làm công cụ cho ý đồ mở rộng bờ cõi của thế lực cộng sản quốc
tế Nga Tàu, trước tiên là thôn tính nhuộm đỏ miền Nam Việt Nam và sau đó
toàn khu vực Đông Nam Á rồi xuống phía nam. Đảng cộng sản Việt Nam vì
bị mê hoặc bởi chủ nghĩa cộng sản quốc tế đã sẵn sàng giao đất đai biển
đảo cho đàn anh cộng sản Tàu “giữ hộ”. Cho đến hôm nay những vùng lãnh
thổ mà lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam giao cho người đàn anh “ruột
thịt” cộng sản Tàu, Tàu chiếm trọn. Không dừng, Trung Cộng đã để lộ cho
thế giới kế hoạch chiếm toàn bộ vùng Biển Đông với con đường biên giới
biển vẽ tay chín đoạn hình lưỡi bò phi lý phi pháp, song song với việc
nhanh chóng phát triển sức mạnh quân sự phục vụ cho ý đồ này. Tình hình
căng thẳng tại Biển Đông hiện nay minh chứng cho dã tâm bành trướng của
Trung Quốc.
Lịch sử ngàn năm của Việt Nam đã từng chứng minh rằng Việt Nam sẽ không
bị Tàu đồng hóa nếu người Việt giữ được trọn vẹn văn hóa Việt, phong tục
Việt và tinh thần “QUYẾT CHIẾN” chống bá quyền đại Hán Trung Cộng.
Nhưng để có được tinh thần quyết chiến, quyết tâm giữ gìn bờ cõi chống
lại ý đồ xâm lược của đại Hán Trung Cộng, Việt Nam phải nhanh chóng phục
hồi lại văn hóa Việt, tình cảm Việt, phong tục Việt, đạo đức Việt, nhất
là phải nhanh chóng hủy diệt toàn bộ loại văn hóa cộng sản lai căng
“Mác-Lê-Mao”.
Đặc tính ưu việt ngàn năm của văn hoá Việt Nam đã bị hủy hoại hầu như
toàn bộ tại miền Bắc từ năm 1954, sau khi đảng Cộng Sản Việt Nam cướp
chính quyền, và thay vào đó một loại văn hóa ngoại lai mất gốc gọi là
văn hóa cộng sản, văn hóa xã hội chủ nghĩa. Miền Nam Việt Nam với may
mắn của 20 năm được sống dưới chế độ tự do dân chủ nên nề nếp văn hóa,
đạo đức, phong tục ngàn đời của người Việt được bảo vệ trọn vẹn và tiếp
tục phát huy. Hiện nay vì lợi ích của phe nhóm thiểu số nắm quyền trong
đảng cộng sản và nhóm đặc quyền cơ hội kinh tế “tư bản đỏ” không còn
tình người kết hợp với sự tiếp tục mù quáng theo đuổi chủ nghĩa Cộng Sản
tự biến dạng, một chủ thuyết mà cả thế giới đã lên án và khai tử, tình
trạng suy đồi văn hoá Việt vẫn còn tiếp tục và biến nền văn hóa Việt
ngàn đời ưu việt thành loại văn hóa vong bản- vô văn hóa, văn hóa đề cao
và khuyến khích thù hận, tuyên dương cướp đoạt, tước đoạt.
Nguy hiểm hơn nữa là trong khi nhà nước Trung Cộng xem Việt Nam là kẻ
thù lịch sử, ngang nhiên chiếm đất (trận chiến biên giới khốc liệt năm
1979 với hàng vạn binh lính và thường dân Việt bị quân Tàu Cộng thảm
sát) chiếm biển chiếm đảo (1974 với quần đảo Hoàng Sa, 1988 với một
phần quần đảo Trướng Sa), liên tục bắn giết binh lính, cướp đoạt tài sản
của ngư dân Việt trên Biển Đông, thì lãnh đạo đảng chính quyền và cán
bộ đảng viên đảng cộng sản Việt Nam lại vẫn tiếp tục tôn thờ, trung
thành với đảng cộng sản Tàu và xem Trung Cộng là nước đồng chí anh em
ruột thịt, trong khi đó lại kết tội những người Việt Nam yêu nước chống
lại bá quyền Tàu Cộng là “thế lực thù địch” và đàn áp không nương tay.
Thay vì noi gương Miến Điện nhanh chóng giải trừ độc tài đảng trị và
phục hồi chế độ dân chủ pháp trị để bảo vệ đất nước chống lại bọn xâm
lược Tàu Cộng, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam tiếp tục khủng bố ác
liệt hơn và bỏ tù những người Việt không đồng chính kiến, công khai phê
phán những việc làm sai trái của họ.
Trước sự hung hãn của đội quân hung bạo Mông Cổ, tiền nhân của chúng ta
đã hùng dũng tuyên bố “QUYẾT CHIẾN” cho câu hỏi “NÊN HÒA HAY NÊN CHIẾN?”
Hiên nay trước hành động gây hấn và ngang ngược xâm lược Biển Đông của
bá quyền Trung Cộng, câu hỏi tương tự lại được đặt ra cho toàn dân Việt
Nam: “Nên hòa hay nên chiến”, nên thần phục hay quyết đối đầu, trước
hành động xâm lược trắng trợn và sự hung hăng tàn bạo của Tàu?
Câu trả lời đương nhiên phải như là câu trả lời của tiền nhân Việt Nam
trước họa xâm lược của quân Nguyên Mông: QUYẾT CHIẾN, THỀ QUYẾT CHIẾN.
Phải đối đầu để tìm cái sống, để bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải của tổ
quốc. Trung Cộng đang xâm lược Việt Nam, đã và đang giết người dân Việt
thì bọn họ không là bạn, là “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt,
đối tác tốt”, mà chỉ là “láng giềng ác, kẻ thù ác, đối thủ ác, đối tác
ác”.
Toàn dân Việt Nam trong nước cũng như ngoài nước cần phải hiên ngang
đứng lên chống đối và tỏ thái độ QUYẾT CHIẾN trước hành động bá quyền
xâm lược của Trung Cộng. Thời gian không cho phép Việt Nam chần chờ,
nhún nhường để mong được bá quyền Tàu Cộng ban phát đặc ân. Kéo dài thêm
thời gian sẽ giúp tạo thêm lợi thế cho tên láng giếng gian manh, xảo
quyệt. Càng kéo dài thời gian thì kẻ thù lịch sử bá quyền Trung Cộng sẽ
càng có thêm thời giờ tăng cường sức mạnh như hổ dữ được mọc thêm cánh.
Càng kéo dài thời gian càng giúp cho bọn bá quyền xâm lược Tàu Cộng rảnh
tay khuất phục kẻ thù xa, Phi Luật Tân, rồi sau đó trở lại thẳng tay
thu phục hay bóp chết đồng chí “giai đoạn” láng giếng gần, Việt Nam!
Vì tiền đồ của Việt Nam và cũng vì tương lai của chính cá nhân, gia đình
của những người cộng sản đang nắm giữ quyền lực trong toàn bộ guồng máy
cai trị, đừng đi theo gót chân tội lỗi của Trần Ích Tắc, Lê Chiêu
Thống, Hoàng Văn Hoan …, hãy có hùng tâm ngàn đời của dân tộc, phải
nhanh chóng và dứt khoát từ bỏ chế độ độc tài cộng sản mà toàn thế giới
đã đoạn tuyệt, hội nhập cùng thế giới văn minh tiến bộ tự do dân chủ để
người dân Việt cả nước, trong và ngoài nước, nhanh chóng phục hồi nề nếp
văn hóa nhân bản và phong tục cao quí của dân tộc Việt, đoàn kết và
cùng quyết chiến chống lại bọn xâm lược lịch sử phương Bắc, Tàu Cộng.
Khi đó toàn thế giới sẽ là đồng minh cùng đồng hành với Việt Nam, một
nước Việt Nam thật sự tự do dân chủ trong đó nhân quyền được tôn trọng
và phát huy.
Khi đó hành động xâm chiếm Biển Đông của bá quyền Trung Cộng sẽ bị thất
bại. Và Biển Đông sẽ luôn là vùng biển của tổ quốc Việt Nam trường tồn
vĩnh cửu.
Biển Đông còn là của Việt Nam, nước Việt Nam còn.
Ngày 02 Tháng 05 Năm 2012