Thứ Hai, 14 tháng 11, 2011

Viễn tưởng 3 (tiếp theo)

Bài 3
 
Đảng Cộng Sản Việt Nam phải giành lại
vai trò lãnh đạo bị đánh mất -
hay là
Hoang tưởng?
 
Đặt vấn đề
 
          Hy vọng các bài về “vấn đề hiền tài”, Bài 1 và Bài 2 đã ít nhiều: (1) phác họa ra được bước ngoặt quyết liệt phía trước đất nước ta đang phải đối mặt, (2) phân tích đòi hỏi bất khả kháng là phải thông qua cuộc cải cách sâu rộng, triệt để thể chế chính trị, kinh tế, và đổi mới toàn diện đời sống văn hóa, xã hội của đất nước,  (3) đặt vấn đề trên cơ sở kế thừa sáng tạo những thành tựu đã giành được và vận dụng mọi thành quả của văn minh nhân loại tìm đường đưa đất nước bước sang một giai đoạn phát triển mới để tồn tại và có chỗ đứng xứng đáng trong cục diện thế giới quyết liệt này nay.
          Điểm (3) nêu trên đồng thời phản ánh niềm tin của người viết là: Thông qua con đường cải cách phòng ngừa không để cho bất khả kháng xảy ra đổ vỡ theo kiểu “cách mạng của các mùa hoa” như ở châu Phi, thực hiện sự kế thừa sáng tạo cho phát triển, thường xuyên thúc đẩy sự tiến hoá (evolution) về mọi mặt, đưa đất nước đi vào con đường trở thành nước phát triển.
          Người viết cũng hy vọng: Con đường của sự kế thừa sáng tạo là kịch bản tiết kiệm xương máu nhất và tối ưu nhất về mọi mặt trong tình hình đối nội và đối ngoại của đất nước ngày nay. Kịch bản này là hiện thực, nếu trí tuệ và lý trí, nhất là ý chí không cam chịu số phận nô dịch và lệ thuộc một lần nữa, giành được tiếng nói quyết định trong cuộc sống đất nước. Chủ động cải cách trước khi đổ vỡ có thể xảy ra, hoặc cải cách sau khi đổ vỡ xảy ra, một trong hai con đường ấy bằng cách này cách khác sẽ diễn ra. Bởi vì chắc chắn dân tộc ta không thể đứng yên tại chỗ cam chịu số phận lệ thuộc và bị uy hiếp như hiện tại, trước sau nhất định sẽ tìm đường trở thành nước phát triển.[1] 
          Ý thức vừa trình bày trên của người viết là lý do phải có Bài 3, dành riêng bàn về vai trò lãnh đạo của ĐCSVN. Vì trong những điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, ĐCSVN là vấn đề cốt lõi, sẽ quyết định có hay không có, thực hiện được thành công hay thất bại cuộc cải cách sâu rộng và triệt để cần phải có này.   
          Bài 3 không làm nhiệm vụ đánh giá những thành tựu đã đạt được, mà chỉ tập trung phân tích một số vấn đề liên quan đến đòi hỏi bức thiết đối với đất nước và có ý nghĩa sống còn đối với Đảng.
 
I. Nhìn thẳng vào sự thật: Vai trò lãnh đạo của Đảng trong thời bình bị tước bỏ như thế nào?

          Có thể nói khái quát, (1) ý thức hệ - nhất là quan điểm về đấu tranh giai cấp và thiết lập chuyên chính giai cấp, (2) quán tính quyền lực thời chiến kể từ khi tiến hành Cách mạng Tháng Tám đến hoàn thành sự nghiệp giành lại độc lập thống nhất đất nước, (3) di sản của truyền thống phong kiến bắt rễ sâu trong đời sống tinh thần và văn hóa của dân tộc và ngày nay còn hằn sâu trong nếp nghĩ mọi người, (4) tình trạng kinh tế, văn hóa, xã hội của một nước tiểu nông manh mún lạc hậu và chậm phát triển, và (5) tác động của thế giới bên ngoài – nhất là quá trình toàn cầu hóa phức tạp và sự sụp đổ của hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa tạo ra tình huống vừa “miễn cưỡng phải đổi mới”, vừa ra sức “cố thủ” trong dinh lũy của ý thức hệ, đấy là 5 yếu tố hiện nay đang chi phối quyết định sự hình thành và vận động của quyền lực Đảng trong thời bình. 
          Năm yếu tố nói trên tác động quyết định vào việc thiết kế, xây dựng và hình thành hệ thống chính trị và toàn bộ đường lối, chính sách của Đảng trong thời bình.  
          Nhìn lại lịch sử, có thể nhận xét: Trong chính trường quốc gia, quyền lực Đảng Cộng Sản Việt Nam là tối thượng đã làm tốt vai trò của nó trong thời chiến, bởi vì chiến tranh đòi hỏi như thế.  
Có hiện tượng tích cực nói trên, trước hết bởi lẽ cuộc (a) cuộc sống khách quan khắc nghiệt của chiến tranh đòi hỏi phải có sự thống nhất tuyệt đối từ tư duy đến hành động, (b) trong hoàn cảnh thời chiến, chất lượng con người và chất lượng Đảng thường xuyên phải tôi luyện, thử thách trong những đòi hỏi khắc nghiệt. Tình hình này diễn ra xuyên suốt thời kỳ chiến tranh, tạo ra trong Đảng sự thống nhất gần như đồng nghĩa với nhau giữa một bên là quyền lực trong Đảng và một bên là Đảng. Đó cũng là thời kỳ có sự thống nhất gần như tuyệt đối về mọi mặt trong Đảng: sự thống nhất giữa đường lối chủ trương của Đảng và nhận thức tư tưởng của đảng viên, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa mục tiêu chiến đấu của Đảng và lý tưởng của đảng viên… Và trên hết cả, thời kỳ này còn tạo ra sự thống nhất rất cao giữa một bên là lợi ích của Đảng cần hoàn thành sự nghiệp giành lại độc lập thống nhất đất nước để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, và một bên là mục tiêu kháng chiến cứu nước của toàn dân tộc.  
          Sự thống nhất nói trên đã tạo ra được hài hòa và bản chất tốt đẹp của thể chế chính trị tồn tại trong thời chiến, thiết lập được các chuẩn mực đạo lý trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, qua đó có khả năng mãnh liệt loại bỏ mọi tha hóa. Chính sự thống nhất này là nguồn gốc sức mạnh của kháng chiến. 
          Tha hóa là hiện tượng thường xuyên diễn ra với tính cách là một mặt khác của sự vận động tất yếu (khách quan) trong mỗi sự vật. Song như đã nói trên, trong suốt thời chiến, quá trình tha hóa này được kiểm soát chặt chẽ bởi những thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và bởi ý chí thống nhất mọi mặt trong Đảng và bởi sự thống nhất giữa Đảng và dân tộc như vừa trình bày. Trong bối cảnh như vậy, đây chính là thời kỳ đất nước có được chế độ chính trị về mặt tinh thần gần như đồng nghĩa với tổ quốc.[2] Tất cả cho thấy, để thực hiện được sứ mệnh được giao, quyền lực tối thượng của một đảng cách mạng nhất thiết phải được kiểm soát chặt chẽ, kể cả trong trường hợp nó giữ vai trò là quyền lực duy nhất trong một quốc gia. 
          Trong thời bình của hệ thống chính trị một đảng, quyền lực Đảng là tối thượng mất hẳn mọi yếu tố nhất thiết phải có cho việc kiểm soát quá trình tha hóa tự nhiên của nó.  
Trong khi đó, quá trình vận động và phát triển của đất nước trong thời bình không có một hệ thống chính trị và pháp quyền cũng như những điều kiện văn hóa, xã hội khác để có thể kiểm soát có hiệu quả mọi diễn biến tiêu cực, do đó tự quá trình phát triển này của đất nước cũng làm nảy sinh quá trình tha hóa rất đặc thù của chính nó.  
Vì thế xuất hiện tình hình, một là sự tha hóa nội tại của Đảng trong tình hình có những hẫng hụt mới trong thực hiện các nhiệm vụ của thời bình và không còn môi trường kiềm chế phải có, hai là sự tha hóa tất yếu trong quá trình phát triển của một đất nước có những hoàn cảnh và điều kiện yếu kém ban đầu của nước ta (nhất là từ khi buộc phải đi vào con đường của kinh tế thị trường),[3] – cả hai nhân tố này đẩy nhanh hơn nữa sự tha hóa tự thân hôm nay trong Đảng.  
Diễn tiến tha hóa trong Đảng đến từ hai phía như vậy là sự vận động khách quan của bản thân sự vật, nghĩa là trở thành vấn đề của bản chất hệ thống, không một ý chí hay đạo đức nào có thể phủ định nó. Thực tế này cắt nghĩa vì sao trong thời bình Đảng và hệ thống chính trị một đảng lại tha hóa nhanh và toàn diện như vậy, cái quán tính lịch sử (nêu trong Bài 2) lên ngôi nhanh như vậy, sức đề kháng chống lại diễn tiến tha hóa này ngày càng yếu đi. Đây là nguyên nhân chính của thực trạng khủng hoảng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội hiện nay của đất nước.
          Trong khi đó, vì sự tồn tại của mình trong thời bình, lại phải đối mặt với những bất cập mới, Đảng đứng trước yêu cầu phải làm tất cả để củng cố vị thế và quyền lực duy nhất và tuyệt đối của mình với tính cách vừa là người lãnh đạo và vừa là người cầm quyền. Những yếu kém và bất cập tất yếu của Đảng vì thế ngày càng nhiều. Càng củng cố theo hướng không phát huy dân chủ như vậy, càng yếu kém và lúng túng. Như một vòng xoáy luẩn quẩn, hệ quả là lại vấp phải bất cập nhiều hơn. 19 điều cấm đối với đảng viên, nhiều luật lệ mới và những quy định khác ra đời trong hoàn cảnh như thế, song không đem lại kết quả mong muốn[4], tha hóa cứ tiếp tục diễn tiến theo con đường của nó.  
Hệ quả chung nhất là chất lượng Đảng sau mỗi Đại hội toàn quốc thấp dần; uy tín, ảnh hưởng và quyền lực lãnh đạo của Đảng giảm sút, càng thúc đẩy xu thế đảng hóa mọi mặt đời sống đất nước để củng cố vị thế của mình. Mặt khác bản thân sự tha hóa và tệ nạn quan liêu tham nhũng trong xã hội cũng thúc đẩy ngày càng mạnh xu thế đảng hóa. Toàn bộ sự vận động này đã từng bước đẩy lùi Đảng từ người lãnh đạo xuống vai trò người trực tiếp nắm toàn diện và tuyệt đối mọi quyền hành đối với đất nước: người cai trị. 
          Vai trò thực chất nói trên của Đảng hiện nay có những đặc điểm sau đây: 
          (1) Tính chuyên chính – được thực hiện nhân danh bảo vệ sự lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng, nhân danh tính giai cấp của hệ thống chính trị và của nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa. 
          (2) Tính thiếu công khai minh bạch, được thực hiện với mục đích bảo đảm quyền lực của Đảng là người quyết định tất cả mọi việc liên quan đến toàn bộ vận mệnh đất nước, được thực hiện triệt để trong toàn Đảng và trong cả nước. Đây là nguyên nhân trực tiếp nhất gây mất dân chủ nghiêm trọng trong Đảng và trong toàn bộ đời sống đất nước. 
          (3) Vì đặt yêu cầu “quán triệt” bảo đàm vai trò lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của quyền lực Đảng, nên duy ý chí, không lắng nghe nguyện vọng của nhân dân, ngày càng xa dời thực tế khách quan của đất nước và bối cảnh thế giới. Chính vì lẽ này, quyền lực Đảng không quan tâm nuôi dưỡng, phát huy trí tuệ, ý chí, khả năng và quyền năng của từng công dân và của toàn thể nhân dân tham gia vào mọi công việc của đất nước.  Thực hiện yêu cầu bảo đảm sự “quán triệt” và sự “lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng” như thế, Đảng giữ độc quyền chân lý, nhiều khi bưng bít sự thật, đi ngược nguyện vọng của dân, bóp chết nhiều sáng kiến. Trên thực tế và về nhiều phương diện là thực hiện chính sách ngu dân, kể từ trong giáo dục trở đi. 
          (4) Cần đặc biệt lưu ý 3 đặc điểm nêu trên dẫn đến đặc điểm (4) như là một hệ quả tất yếu: Sự quán triệt như vậy chi phối tuyệt đối và toàn bộ nội dung sinh hoạt Đảng, trực tiếp phân hủy sức sống và ý chí cách mạng của đảng viên, lấy đi năng lực và phẩm chất tiền phong chiến đấu Đảng vốn đã gây dừng được cho mình trong suốt quá trình kể từ ngày thành lập đến khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng, giành lại độc lập và thống nhất đất nước. Trong Đảng, tất cả hầu như chỉ còn lại sự  quán triệt của cấp dưới đối với ý chí của cấp trên, sự quán triệt của toàn Đảng đối với ý chí của những người nắm thực quyền trong Đảng; sinh hoạt Đảng chủ yếu chỉ còn lại hai nội dung là (1) nghe phổ biến và (2) quán triệt, nghĩa là rất nghèo nàn.  Chính thực tế này đã làm cho trí tuệ và tính tiền phong chiến đấu của Đảng teo tóp dần.  Hệ quả là: (a) quyền lực Đảng từng bước và về nhiều mặt trở thành quyền lực trực tiếp của những người, những nhóm có quyền lực hay có ảnh hưởng chi phối trong Đảng, (b) làm cho toàn Đảng trở thành người đầu tiên thực thi mọi điều mà ý muốn quyền lực của Đảng đòi hỏi phải “quán triệt” trước khi đưa ra thực thi trong cả nước. Kết cục: Chính bản thân Đảng cũng trở thành đối tượng, thành nạn nhân, thành phương tiện của quyền lực Đảng.   
Bốn đặc điểm nêu trên là nguyên nhân chủ yếu tạo ra trong đời sống quốc gia sự tồn tại một kiểu nhà nước trên thực tế (the state de facto) có thực quyền là hệ thống đảng trị; nhà nước pháp quyền được được thiết lập theo Hiến pháp trên thực tế trở thành người thừa hành quyền lực Đảng, thừa hành quyền lực của cái “the state de facto” nói trên.  Trước và sau các Đại hội X và Đại hội XI đã có nhiều ý kiến phân tích sâu sắc sự phát triển nguy hiểm này trong Đảng, đã đặt tên cho hiện tượng này là làm vua tâp thể (Nguyễn Văn An). Đây là nguyên nhân cơ bản và sâu xa nhất đang kìm hãm sự phát triển của đất nước. 
 
II. Sự cố thủ bảo vệ quyền lực Đảng và đòi hỏi phải cải cách
 
          Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ quan điểm quyền lực của nhà nước là thống nhất – đấy là hai tiêu chí quyết định tư duy và hành động của Đảng, chi phối mọi chủ trương chính sách của Đảng, cố thủ giữ cho Đảng và đất nước không chệch hướng.
 
Có rất nhiều vấn đề để bàn chung quanh sự cố thủ này. Trong phạm vi Bài 2  chỉ xin tập trung vào hai vấn đề  dưới đây.
 
II.1. Về tập đoàn kinh tế nhà nước
 
Trong thực tế, các tập đoàn và tổng công ty nhà nước nắm giữ ước lượng khoảng 60 – 70% vốn và tài sản quốc gia, được giao cho nhiều quyền lực chính trị, và tự thân các tập đoàn này cũng tạo ra cho mình nhiều quyền lực và ảnh hưởng quan trọng mang tính độc quyền. Những yếu kém của hệ thống chính trị, cùng với những yếu kém khó tránh khỏi trong quản lý nền kinh tế quốc dân, sự lũng đoạn của các tập đoàn, tất yếu dẫn đến sự xuất hiện các nhóm lợi ích có ảnh hưởng chi phối toàn bộ đời sống đất nước và hầu như vượt ra ngoài tầm kiểm soát của Cương lĩnh và Điều lệ Đảng cũng như của Hiến pháp và luật pháp của quốc gia.  
          Một trong những “sản phẩm” quan trọng nhất của tình hình nêu trên là quy định cho phép các tập đoàn được huy động tới 30% tổng vốn của mình cho mọi hoạt động kinh doanh khác nghề (nghĩa là kinh doanh các sản phẩm không thuộc chức năng chính được giao cho tập đoàn). Hệ quả là trên thực tế khó mà nói dứt khoát được rằng cái gì là sản phẩm chính của tập đoàn kinh tế nhà nước; tính công khai minh bạch của các tập đoàn kinh tế nhà nước hầu như là không thể, thị trường nhiễu loạn, tính quy hoạch của nền kinh tế bị phá vỡ, và vai trò kiểm soát của Nhà nước bị giảm sút nghiêm trọng, nhiều trường hợp là không còn.   
Gần như tất cả các tập đoàn kinh tế nhà nước hiện nay đều là các nhân vật chính trong hệ thống ngân hàng, trên thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, và n các thị trường khác của những sản phẩm dễ “đánh quả” nhất – vô luận những sản phẩm này có thể để lại những hậu quả gì ngắn hạn và dài hạn cho đất nước. Chỉ riêng tình trạng cả nước không còn một sông suối nào thoát khỏi ô nhiễm, khai thác khoáng sản đào bới tanh bành đất nước, quy hoạch công nghiệp và đô thị chồng chéo giẫm đạp lên nhau, càng phát triển càng ách tắc, hàng trăm hàng nghìn dự án treo, sân golf la liệt khắp nơi trong một đất nước đất hẹp người đông, chất lượng sản phẩm của các tập đoàn cung cấp cho nền kinh tế quốc dân nói chung thấp và đắt… Những hiện tượng này đủ nói lên mức độ nghiêm trọng của tình hình. Trong khi đó sẵn sàng để cho vốn nước ngoài chiếm ngày càng nhiều hoặc chiếm đứt thị trường của những sản phẩm quan trọng – mới đây nhất là toàn bộ sản xuất trong nước thức ăn gia xúc đã bị tư bản (vốn) Trung Quốc tóm gọn.  
Nhìn vào tình hình nợ và lỗ của nhiều tập đoàn, nhìn vào khả năng thanh khoản thấp của nhiều ngân hàng thương mại, sự đổ vỡ từ nhiều năm nay của thị trường địa ốc, nhìn vào giá trị tài sản trên thị trường chứng khoán ngày nay chỉ còn lại khoảng ⅓ hay ¼, thậm chí có khi chỉ còn lại 1/5 so với thời cao điểm cách đây một số năm… đều thấy dấu ấn của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Thật dễ hình dung nền kinh tế quốc dân bị rút ruột như thế nào. Đất đai và nhiều tài nguyên khác Nhà nước có thể bán đi đã bán khá nhiều rồi, có thứ đã bán gần hết, song Nhà nước vẫn thiếu vốn và nghèo, trong khi đó xuất hiện những đại gia một cách khó hiểu và rất điển hình của sự tích tụ tư bản ở thời kỳ hoang dại. 
Việc các nhà thầu Trung Quốc thắng thầu EPC có tới cả trăm công trình kinh tế quan trọng của quốc gia, thuê được nhiều nghìn ha rừng tại những địa điểm xung yếu trong cả nước, chiếm được thị phần quan trọng trong nhiều thương vụ, vân vân… về nhiều phương diện và trong nhiều trường hợp là kết quả hợp tác hay có sự môi giới của các tập đoàn kinh tế nhà nước hữu quan; ví dụ dự án EPC cho khai thác bô-xít Tây Nguyên là kết quả hợp tác của tập đoàn TKV (Tập đoàn than và khoáng sản Việt Nam). Một số công trình nhiệt điện do tập đoàn EVN là chủ đầu tư, bên trúng thầu EPC là các công ty Trung Quốc, đang chậm tiến độ nghiêm trọng và chất lượng có nhiều vấn đề. Trong khi đó tuy còn hiếm, nhưng không phải không có những công trình do các công ty của ta trúng thầu EPC với giá thành thấp hơn, tiến độ thi công nhanh hơn và chất lượng tốt hơn – ví dụ những công trình khí, điện, đạm do tập đoàn Lilama trúng thầu và đã được thực hiện tốt. 
Tình hình nghiêm trọng nói trên đã đặt ra cho Hội nghị Trung ương 3 (tháng 10-2011) đòi hỏi phải tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn và tổng công ty nhà nước, và phải thực hiện việc này xong trước năm 2015. 
Tuy nhiên, làm thế nào để thực hiện được đòi hỏi nói trên, nếu quyền lực của Đảng và quyền lực của Nhà nước bị mất hiệu lực đáng kể do cấu trúc lồng ghép chồng chéo vào nhau như hiện nay của hệ thống chính trị và do sự chi phối nghiêm trọng của các nhóm lợi ích? 
Hơn thế nữa nhóm lợi ích và khuynh hướng bảo thủ trì trệ chắc chắn sẽ bám vào quan điểm đã ghi thành văn trong Nghị quyết và trong Cương lĩnh của Đại hội XI để cố thủ: 
-    Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.” (Cương lĩnh).
-     Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.” (Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020)[5].
Trí tuệ trong Đảng và ngoài xã hội từ lâu đã có nhiều ý kiến đúng đắn: Cần phải sớm cắt bỏ khoản “30% vốn cho kinh doanh khác nghề” ra khỏi các tập đoàn nhà nước, đẩy các tập đoàn này vào thị trường để họ hoạt động một cách bình đẳng như các thành phần kinh tế khác, chỉ giao cho các tập đoàn này những sản phẩm mà khu vực kinh tế tư nhân không làm tốt bằng hoặc không cáng đáng nổi, đẩy mạnh cổ phần hóa, thực hiện quy chế công khai minh bạch, xây dựng hệ thống kiểm tra thanh tra độc lập với Chính phủ (có thể nên đặt dưới quyền điều hành trực tiếp của Quốc hội) để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, vân vân...  
Các nhóm lợi ích chi phối các tập đoàn kinh tế nhà nước có khả năng khống chế tới mức trong điều hành công việc nhà nước nhiều khi xảy ra hiện tượng cái đầu không vẫy được cái đuôi. Có người đã nói tập đoàn A này là sân sau của ông XYZ…  
Vì vậy rất cần ý chí và quyền lực để thực hiện được những điều đúng đắn mà trí tuệ cả nước đã kiến nghị đối với việc tổ chức lại tập đoàn kinh tế nhà nước.
 
II.2. Về quyền lực nhà nước là thống nhất
 
          Quan điểm này được đưa ra với mục đích bác bỏ nguyên tắc tam quyền phân lập trong thiết kế bộ máy nhà nước, thực chất là để bảo đảm quyền lực tuyệt đối của Đảng chi phối toàn bộ hệ thống chính trị và bộ máy chính quyền. 
          Có thể nói ngay thế này, chính vì Nhà nước trên thực tế là bộ máy thừa hành quyền lực Đảng, do đó nhìn về bất kỳ phương diện nào nguyên tắc tam quyền phân lập là không thể.  
Ở đây có vấn đề: Nói quyền lực nhà nước là thống nhất, cần làm rõ là nó phải được thống nhất với cái gì, trên nền tảng nào? 
          Nếu là sự thống nhất nằm trong khuôn khổ quyền lực của Đảng, hay đấy là sự thống nhất với quyền lực của Đảng, hiển nhiên sự thống nhất ấy chỉ có thể đẻ ra một nhà nước đảng trị, một nhà nước chủ yếu làm nhiệm vụ thừa hành quyền lực của Đảng. 35 năm qua nước ta đã có và hiện nay đang có một hệ thống nhà nước  pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa, do Đảng nắm quyền tuyệt đối. 
          Đúng, ở mọi quốc gia quyền lực nhà nước phải thống nhất. Song nếu là nhà nước pháp quyền đích thực và thực sự có quyền lực, thì nhất thiết cấu trúc của quyền lực này phải thống nhất trên cơ sở của Hiến pháp và duy nhất chỉ trên cơ sở của Hiến pháp mà thôi! 
Cho đến nay, văn minh nhân loại chắt chiu qua những bài học không ít xương máu từ thời đại này sang thời đại khác, chỉ thiết kế nên được một hình mẫu nhà nước pháp quyền khả dĩ thành công là nhà nước thống nhất trong khuôn khổ của Hiến pháp và được thiết kế theo nguyên tắc tam quyền phân lập – đấy là nguyên tắc kiềm chế và kiểm soát lẫn nhau giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thực tế này xuất phát từ một nguyên lý mang tính quy luật của cuộc sống: Quyền lực ở đâu cũng luôn luôn đòi hỏi phải được tiết chế, được kiểm soát để không bị lạm dụng hay trở thành bạo lực. Một nhà nước pháp quyền không có quyền lực thì chỉ có thể là một công cụ của một thứ quyền lực khác. Một nhà nước pháp quyền có quyền lực mà không có tam quyền phân lập thì dễ là con mồi của mọi ý đồ xấu, và nếu nó có thực quyền thì đấy sẽ là thực quyền của bạo lực hoặc có khả năng luôn luôn bị bạo lực lũng đoạn. 
Một nhà nước có Hiến pháp tốt nhất và thực hiện đúng nhất nguyên tắc tam quyền phân lập cũng không thể tránh khỏi khuyết tật, vì tất cả đều là sản phẩm của con người, được vận hành theo phẩm chất hay bản năng của con người. Dù thế đi nữa, cho đến nay trí tuệ loài người vẫn chưa phát minh ra được một thứ gì đó tốt hơn. Và chính vì lẽ này, cuộc sống đòi hỏi phải thường xuyên có điều chỉnh, thay đổi và phát triển, phải thường xuyên thực hiện được sự kiểm soát của nhân dân thông qua thực hiện dân chủ và công khai minh bạch. Cần phải có một xã hội dân sự mạnh để nhân dân trực tiếp thể hiện quyền lực của mình cũng chính vì lẽ này. 
          Hiến pháp năm 1946 được thiết kế theo đúng mục đích xây dựng một nhà nước pháp quyền có quyền lực, được xây dựng theo nguyên tắc tam quyền phân lập, để có khả năng thực thi nhiệm vụ là nhà nước của dân, do dân, vì dân.  
So sánh Hiến pháp 1946 với những Hiến pháp đang hiện hành ở nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới như Đức, Pháp, Mỹ, Anh.., phải nói Hiến pháp 1946 là thuộc loại hiện đại, giản dị, dễ hiểu và phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nước ta, bảo đảm tối ưu tự do và các quyền và nghĩa vụ của người dân. Hiến pháp 1946 khẳng định quan hệ giữa người dân và Nhà nước là quan hệ của công dân với tính cách là người chủ đất nước, ủy thác những quyền nhất định cho Nhà nước thi hành (các Điều 1, 4, 5, 6, 7, 8, 10, 11, 12, 13, 15, 17,18, 21, 32, 70). Hiến pháp 1946 nhấn mạnh quyền phúc quyết của người dân đối với Hiến pháp và các vấn đề quốc gia trọng đại (các Điều 21, 32 và 70). Hiến pháp 1946 làm rõ quyền lực nhà nước chỉ được phép làm gì (các điều trong các Chương III, IV…). Hiến pháp 1946 phòng ngừa và loại bỏ khả năng nhà nước bị các lực lượng chính trị đứng ngoài hay đứng trên Hiến pháp chi phối: Ngoài các thể thức ứng cử và bầu cử, xây dựng Nghị viện, bộ máy Chính phủ và chính quyền các cấp, Hiến pháp không có một quy định nào dành riêng cho bất cứ một lực lượng chính trị nào bất kể quyền gì.  
Do được xây dựng cách đây gần 65 năm, Hiến pháp 1946 không thể tránh khỏi một số điều còn giản lược, nhất là trong phần tư pháp còn thiếu hẳn phần nói về Tòa án Hiến pháp. Tuy nhiên, xin lưu ý ngay cả ở nhiều nước phát triển – ví dụ Cộng Hòa Liên Bang Đức – Tòa án Hiến pháp cũng chỉ bắt đầu có từ những năm 1950, nhiều nước khác ở châu Âu mới có Tòa án Hiến Pháp từ những năm trong một hai thập kỷ chót của thế kỷ trước…  
Đương nhiên Tòa án Hiến pháp là một đòi hỏi mới của phát triển. Cuộc sống ở mọi quốc gia trong thế giới ngày nay tất yếu đòi hỏi phải có Tòa án Hiến pháp đứng trên mọi quyền lực quốc gia để xử lý những vấn đề của quốc gia trên cả 2 phương diện đối nội và đối ngoại. Sự phát triển của mỗi quốc gia càng cao, các mối quan hệ trong - ngoài càng có nhiều vấn đề mới và phức tạp, quá trình hội nhập quốc tế càng phát triển, Tòa án Hiến pháp ngày nay càng trở thành một đòi hỏi tất yếu đối với mọi quốc gia. 
         Từ là người dân mất nước, giành lại được độc lập tự do của tổ quốc, khẳng định quyền độc lập của đất nước và các quyền của công dân một nước tự do, Hiến pháp 1946 là một thành quả cách mạng vỹ đại, đoàn kết toàn dân tộc không phân biệt một ai để bảo vệ và thực hiện những quyền ấy. Lời nói đầu của Hiến pháp 1946  xác định 3 nguyên tắc để xây dựng Hiến pháp:
  • Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp tôn giáo,
  • Đảm bảo các quyền tự do dân chủ,
  • Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.[6]
So sánh bao giờ cũng là một công việc rất khó, tuy nhiên về mặt nào đó mà xét, Hiến pháp 1946 còn là một tài sản chính trị và tinh thần quý báu của dân tộc ta, mở ra hay đánh dấu một thời đại mới của đất nước ta: Thời đại của một quốc gia độc lập trong thế giới văn minh hiện đại. Với tính cách như thế, Hiến pháp 1946 có giá trị thiêng liêng có thể sánh với Hịch Tướng Sỹ, Bình Ngô Đại Cáo. Hiến pháp 1946 chính là hiện thân sự thực thi ý chí quyền lực của nhân dân nói trong Tuyên Ngôn Độc Lập 02-09-1945.
Nhân dân là chủ thể của Hiến pháp. Bài viết của đại tá tiến sỹ Nguyễn Văn Quang “Đừng nhầm lẫn từ “nhân dân” trong hiến pháp” đăng trên QĐND online ngày 23-10-2011 là một sự giải thích tùy tiện quá đáng khái niệm “nhân dân” trong Hiến pháp năm 1946 và qua đó hiểu sai toàn bộ Hiến pháp 1946. Giải thích tùy tiện như vậy của người viết là một sự xúc phạm không thể chấp nhận được đối với văn kiện lịch sử này của đất nước.
Mức độ sai trái và ảnh hưởng của bài báo này và những bài báo tương tự như thế trên các báo chính của Đảng và Nhà nước dù thế thế nào đi nữa cũng là chỉ có giới hạn, cùng lắm là nhằm giải thích sai một sự thật nào đó, hoặc để cung cấp một số lập luận cho những người thi hành công vụ khi họ làm những việc được giao. Tác hại lớn hơn nhiều và khó lường lại nằm ở chỗ các cơ quan chức năng hữu quan hay các cơ quan có quyền lực của Đảng lại chủ trương dùng những bài báo như thế như là một thứ vũ khí để bảo vệ tính chính đáng của mình, hướng dẫn dư luận và thực hiện chuyên chính với mọi điều trái với sự chỉ đạo của quyền lực Đảng. Kết quả đạt được chỉ làm cho nhân dân thêm xa Đảng và làm yếu đất nước. 
Kỷ cương của đất nước, Cương lĩnh và Điều lệ ở trong Đảng, Hiến pháp và luật pháp của quốc gia sở dĩ không thực hiện nghiêm túc được, trước hết là do hệ thống chính trị có cấu trúc chồng chéo giữa Đảng với chính quyền, bộ máy của toàn bộ hệ thống được đảng hóa, vận động dưới sự chỉ huy của quyền lực Đảng nhân danh bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng và nhân danh quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất như đã ghi trong các văn kiện chính thức của Đảng và trong những bài phát biểu của các lãnh đạo cao cấp.  
Xem xét riêng trong bộ máy nhà nước, tình trạng đất nước có nhiều chuyện không nghiêm như hiện nay, có một phần quan trọng là do sự thiếu vắng trong hệ thống nhà nước nguyên tắc tam quyền phân lập trên cơ sở của Hiến pháp, do sự hoành hành của cơ chế xin cho, của các hiện tượng chạy chức, chạy quyền, chạy tội.., do quyền lực Đảng quyết định mọi công việc của Nhà nước  nhưng không thể truy cứu trách nhiệm khi mắc sai lầm. 
Gần đây nhất, Nghị quyết Đại hội XI ghi “Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”[7]  Song để đi tới quyết định quan trọng này, cho đến nay chưa thấy một đánh giá chính thức và công khai nào của Đảng về tình hình thực hiện mục tiêu chiến lược “đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” đưa ra cho nhân dân, cho Quốc hội, để trí tuệ cả nước bàn bạc xem xét đúng/sai thế nào, ưu khuyết gì, nên hay không nên tính đến 2050, chấp thuận hay không chấp thuận... Làm như thế, hiển nhiên là Đảng đã quyết thay dân, thay Nhà nước, đưa ra cho dân và cho bộ máy nhà nước cứ thế mà làm... Chủ trương khai thác bauxite ở Tây Nguyên, phá bỏ nhà Quốc hội cũ, xáp nhập Hà Tây vào Hà Nội… là những ví dụ cụ thể khác ở tầm quy mô khác của phương thức cầm quyền như vậy. Nếu có ý kiến không đồng tình hay phản bác từ phía dân, thường thường được giải thích: …đây là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước… Chấm hết.
Hiện tại đang có nhiều ý kiến sôi nổi trong nhân dân về sửa đổi Hiến pháp. Song đã có ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo là sửa đổi gì cũng phải trong khuôn khổ Cương lĩnh của Đảng… Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng giải thích cụ thể hơn, đại ý: Sửa đổi gì cũng phải bảo đảm quyền lãnh đạo của Đảng, sửa thế nào phải báo cáo Bộ Chính trị!..  Vậy ai là người cuối cùng phúc quyết Hiến pháp? 
Đấy là những ví dụ mới nhất về đảng trị đang diễn ra. 
Xin hỏi, tại sao không đặt ngược lại: Bộ Chính trị phát huy dân chủ trong toàn Đảng và cả nước nghiên cứu kỹ tình hình mọi mặt đất nước hiện nay, huy động trí tuệ cả nước và những kinh nghiệm quý báu của thế giới, lãnh đạo cả nước dựa vào đó đem hết trí tuệ và tâm huyết xây dựng Hiến pháp mới đáp ứng tốt nhất đòi hỏi của đất nước trong tình hình mới; sau đó Đảng căn cứ vào Hiến pháp mới và căn cứ vào đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới mà tổ chức lại chính mình, đề ra Cương lĩnh và chương trình hành động của mình, với mục đích lãnh đạo cả nước thực hiện thành công Hiến pháp mới và những nhiệm vụ mới?  
Làm như thế nước ta yếu đi hay mạnh lên? Hay là làm như thế không phải là lãnh đạo?
 
II.3.  Đòi hỏi phải cải cách toàn diện và triệt để đặt ra đối với Đảng

          Các ý kiến, kiến nghị của các trí thức và tầng lớp nhân nhân dân khác nhau gửi lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong những tháng vừa qua đã nói lên đầy đủ vì sao phải tiến hành cải cách toàn diện và sâu rộng chế độ chính trị, hệ thống kinh tế của đất nước, đồng thời phải đổi mới toàn bộ đời sống tinh thần, văn hóa, xã hội cả nước, nêu ra những việc cần làm. 
          Phần này xin bàn riêng về Đảng Cộng Sản Việt Nam:
          Trước hết xin nhắc lại  
Một là chúng ta đang sống trong một thế giới có nhiều thay đổi và thách thức mới sâu rộng, toàn diện, khó lường. Vận tốc và quy mô, tác động của những thay đổi này nhiều khi làm chúng ta chóng mặt. Xin nêu một ví dụ gần đây nhất để minh họa: Chỉ mới đêm hôm trước họp Hội nghị G20 ở Cannes (Pháp, 03-11-2011), việc Thủ tướng Hy Lạp George Papandreouthấy cần phải nêu ra trưng cầu dân ý để cáng đáng những gánh nặng vỡ nợ, khiến cho nguy cơ đồng Euro bị vỡ  cận kề, thị trường tài chính tiền tệ cả thế giới nín thở - vì lo lắng có thể xảy ra những hệ lụy domino khó lường; ngày hôm sau kết quả của hội nghị Cannes trước mắt đã tạm thời giải tỏa tình hình này, nhiều quốc gia thở phào! Những ví dụ thời sự có tầm vóc như thế trên thế giới ngày càng nhiều: từ sự kiện Tunisie hôm qua… đến nhiều quyền lợi của con người bị quá trình toàn cầu hóa đầy chông gai nuốt mất, đến sự kiện chiếm phố Wall, đến đồng USD tiếp tục mỏng đi và đồng Euro bị sứt… vân vân… Tất cả khiến chúng ta không kịp thở, và sẽ còn tiếp tục như vậy. Chỉ có thể kết luận: Cùng với cộng đồng các quốc gia trên thế giới, nước ta đang bước vào một thế giới khác hẳn trước, đòi hỏi phải có những thay đổi sâu sắc. Nhìn vào khu vực Đông Nam Á, điều này chắc càng nóng bỏng đối với nước ta. 
          Hai là: Sau 35 năm đầu tiên phát triển trong thời bình, nhất là sau những gì 25 năm đổi mới đã làm được, nước ta đứng trước đòi hỏi nhất thiết phải chuyển sang một thời kỳ phát triển khác cao hơn, chất lượng hơn. Đòi hỏi trong nước và bối cảnh quốc tế và khu vực đặt nước ta trước bước ngoặt định mệnh trên con đường phát triển của mình: Phải tiến lên trở thành một nước phát triển, hoặc chấp nhận thân phận một quốc gia èo uột và chịu sống trong sự nô dịch mới. 
          Hai điểm vừa nêu trên, tất yếu đòi hỏi nước ta phải có được một thể chế chính trị dân chủ có khả năng đoàn kết toàn dân tộc và phát huy được tối đa nguồn lực lớn nhất của đất nước là con người, vận dụng được trí tuệ và nguồn lực của thế giới, tất cả để thích nghi với vận động của thế giới và đổi đời đất nước; đồng thời đất nước đòi hỏi phải có một đội ngũ tinh hoa của dân tộc lãnh đạo một thể chế chính trị quốc gia đủ mạnh để thực hiện thành công nhiệm vụ của nó. 
          Trên đây là những đòi hỏi khách quan, được đặt ra cho nước ta từ bối cảnh quốc tế và từ chính những đòi hỏi phát triển tự thân của nước ta. Không một sự duy ý chí nào có thể thay đổi những đòi hỏi này; mà chỉ có vấn đề Đảng Công Sản Việt Nam với tính cách là người nắm trọn trong tay quyền lực đất nước sẽ lựa chọn gì từ thực tế khách quan này cho đất nước và cho sự tồn tại của chính mình. Quyền lực hiện nay không nằm trong tay dân, nên trên thực tế là dù có muốn dân cũng không có quyền lựa chọn; tuy nhiên dân sẽ tùy sự lựa chọn của Đảng mà xác định cách ứng xử của mình đối với Đảng. 
Bài viết về sử dụng người tài, Bài 1 và Bài 2 đưa tôi đến nhận xét: Nhìn lại lưng vốn Đảng đang có trong tay, có thể nói cái Đảng có còn quá ít, quá thiếu, về cơ bản là không thể đáp ứng được những đòi hỏi mới đang đặt ra cho đất nước hôm nay. Đồng thời không bao giờ có chuyện Đảng tự nguyện từ bỏ quyền lực của mình.  
Nhìn thẳng vào sự thật thì phải nói như thế. Vì Đảng hôm nay đang giữ lại, đang bảo tồn, và hiện đang dùng quá nhiều cái của hôm qua, từ trí tuệ, đến tư duy, cho đến tổ chức, cho đến sinh hoạt Đảng.., có quá nhiều cái không khác hay không đi xa được bao nhiêu so với những cái gì đã có và đã làm trong thời chiến.  
Những cái cũ như thế từ thời chiến xa xôi nhiều lắm, trong nếp nghĩ, trong tổ chức và trong sinh hoạt Đảng, tiêu chuẩn kết nạp đảng viên, là các luật và lệ không thành văn chi phối toàn bộ hoạt động của Đảng, trong thiết kế và vận hành bộ máy của toàn bộ hệ thống chính trị - kinh tế - xã hội - văn hóa của đất nước, với không ít quan điểm theo tư duy rất lạc hậu, trong tổ chức xã hội và trong xây dựng thượng tầng kiến trúc xã hội… Nghĩa là còn rất nhiều thứ đậm sắc thái văn hóa  phong kiến, manh mún, tiểu nông lạc hậu.  
Phải chăng có thể kết luận: 
Đảng hôm qua từ là một tổ chức tiền phong chiến đấu giữ vai trò đầu não lãnh đạo cách mạng, hôm nay trở thành lực lượng chính trị nắm thực quyền trong hệ thống chính trị một đảng; qua đó hệ thống nhà nước pháp quyền trở thành người thừa hành quyền lực của Đảng, Đảng vận động trong sự phát triển biện chứng như thế nên hôm nay đã trở thành đảng cai trị. 
Quyền lực của Đảng như hiện nay, hoàn toàn đủ sức duy trì một chế độ chính trị có một đảng cầm quyền như hiện nay, tạo ra cho đất nước một kết quả phát triển như hiện nay, song về lâu dài sẽ không thể đưa đất nước lên con đường trở thành một quốc gia phát triển. Cái tên gọi là nước xã hội chủ nghĩa hay là định hướng xã hội chủ nghĩa, hay là gì gì đi nữa… không phải là thước đo chất lượng và sức mạnh của một quốc gia. Đã có nhiều phân tích của các học giả Việt Nam sống trong nước hay sống ở nước ngoài và nhiều học giả nước ngoài khác cảnh báo: Nước ta đã quá sớm rơi vào cái bẫy của nước đang phát triển có thu nhâp trung bình thấp. 
 Ở góc độ và mức độ nào đó mà xét, với tính cách là một lực lượng chính trị chứ không phải là một tổ chức tiền phong chiến đấu, Đảng bây giờ tự phân hóa thành 2 phần: (a) phần quyền lực Đảng ở trong Đảng, (b) phần toàn Đảng nói chung. Hệ quả của sự phân hóa này là tự thân Đảng cũng trở thành người đầu tiên thực thi ý chí của quyền lực Đảng trước khi nó được đưa ra thực thi ngoài xã hội  - (như đã trình bày ở đặc điểm 4 trong phần I).   
Quyền lực Đảng như thế đã tước đi vai trò lãnh đạo vốn có của Đảng. Nói Đảng phải phấn đấu giành lại vai trò lãnh đạo bị đánh mất, nghĩa là bị tha hóa cướp mất, là nói theo ý này. 
Đòi hỏi khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới ngày nay của đất nước là phải có sự lãnh đạo sáng suốt của một lực lượng chính trị có sức mạnh, có tầm nhìn, có trí tuệ, có ý chí kiên định đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, để có thể làm tròn sứ mệnh lãnh đạo của nó. Không có sự phát triển nào của một quốc gia lại không cần một sự lãnh đạo như thế. Nước Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển mới trong cục diện thế giới mới lại càng đòi hỏi phải có sự lãnh đạo như thế. 
Song cần khai thác kho tàng kinh nghiệm của thế giới về đòi hỏi nói trên. Sự đổ vỡ và phát triển của thể chính trị ở hầu hết mọi quốc gia trên thế giới suốt hai thế kỷ nay cho thấy: Thực hiện dân chủ, xây dựng một thể chế dân chủ ở một quốc gia trước hết còn phải là kết quả của một quá trình của học hỏi, của một quá trình phát triển, là kết quả của sự nâng cao không ngừng dân trí và ý chí phấn đấu cũng như tinh thần trách nhiệm của từng người dân của quốc gia đó, là kết quả của nhiều sự chuẩn bị khác... Trên thế giới chưa từng có một thể chế dân chủ ăn sẵn nào (được cho không, do được người khác đem đến…) hay một loại thể chế dân chủ tự phát nào có thể thành công và tồn tại. Các cuộc cách mạng mang tên các mùa hoa đang diễn ra ở một số nước trên thế giới hôm nay tiếp tục khẳng định sự thật này.  
Chế độ chính trị một đảng ở nước ta là kết quả vận động của lịch sử cận đại của nước ta. Thừa nhận hay không thừa nhận, đấy là một thực tế khách quan, tư duy chủ quan chẳng có nghĩa lý gì. Nhất thiết nước ta cũng phải trải qua một quá trình phát triển rất có ý thức, rất tự giác học hỏi cái mới và chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết khác mới có thể đi từ chế độ chính trị hiện nay tới một thể chế dân chủ do đội ngũ tinh hoa của đất nước lãnh đạo. Không thể có sự thần kỳ nào bước một bước lên tới trời, vả lại trời trên cao thì có nhưng làm gì có trời để mà đặt chân bước lên như thế! 
Các nước Liên Xô – Đông Âu cũ thực hiện cải cách đi thẳng vào thiết lập thể chế dân chủ mà không trải qua một quá trình học hỏi và chuẩn bị cần thiết nên đổ vỡ. Đấy là bài học rất có ý nghĩa đối với nước ta là nước đi sau: Không thể không cải cách, nhưng thực hiện thể chế dân chủ không thông qua quá trình học hỏi và những quá trình chuẩn bị cần thiết khác nhất định thất bại.  
Đã nói nhiều lần rồi và vẫn xin nhắc lại: Ở nước ta nếu từ thực trạng hiện nay bước thẳng đến chế độ chính trị dân chủ nhiều đảng sẽ dẫn tới thảm kịch đổ vỡ nồi da xáo thịt. Đây hoàn toàn là lẽ tất yếu của sự vật vận động trong hoàn cảnh và trình độ phát triển của nước ta hiện nay, không hề là lời đe dọa, xin đừng ai mơ ngủ chuyện này.   
Cái mà đất nước lúc này cần nhưng Đảng chưa có là Đảng phải trở thành đầu não lãnh đạo sự nghiệp đưa đất nước ta tiến bước thành công trên con đường trở thành nước phát triển. 
Cái mà Đảng có rất mạnh, song đất nước đi vào thời kỳ phát triển mới không thể dùng được là cái đảng trị. Thậm chí sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới đòi hỏi phải loại bỏ thứ quyền lực đảng trị. Quyền lực Đảng không muốn điều này. 
Cái mà Đảng có và lúc này đất nước đang rất cần, đó là một loại sức mạnh Đảng đang có trong tay được tạo ra từ cái vốn lịch sử to lớn và là lực lượng chính trị mạnh nhất trong xã hội nước ta hiện nay không một lực lượng chính trị nào khác của đất nước có thể sánh được. Nhưng một sức mạnh như thế lại chưa phải là của dân, nên dân chưa dùng được. Có cách gì biến nó thành sức mạnh của dân? 
Vì thế, nếu cái lực lượng chính trị mạnh nhất ấy trong xã hội nước ta hôm nay là Đảng, bây giờ được trang bị mới cái đầu não lãnh đạo có khả năng ngăn chặn sức mạnh ấy trở thành sức mạnh để trấn áp, đồng thời biến sức mạnh ấy thành đầu tầu thực hiện cải cách thành công phát huy sức mạnh của dân, với mục đích đưa nước ta trở thành một nước phát triển – một Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh – thử hỏi có trở lực nào nước ta không thể vượt qua để đi tới cái đích mà chính Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân danh lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia đã tinh túy nên như thế? 
Tôi thiển nghĩ, giao cho Đảng, với tính cách là lực lượng chính trị mạnh nhất trong so sánh tương quan các lực lượng trong xã hội hiện nay của nước ta, nhiệm vụ Đảng phải trở thành một đảng lãnh đạo như thế hoàn toàn không phải là một sự ưu ái hay đối xử thiên lệch nào, mà đấy chỉ là sự lựa chọn của lý trí, tìm cái khả dĩ thực hiện nhất và tiết kiệm xương máu nhất, phù hợp với so sánh lực lượng của nội bộ xã hội nước ta trong bối cảnh quốc tế hiện tại.  
Cần giao cho Đảng nhiệm vụ phải trở thành người lãnh đạo như thế chí ít là vì 6 lý do dưới đây: 
(1)  thuận theo sự phát triển của lịch sử cận đại của đất nước,
(2)  song trên hết cả sự lựa chọn con đường kế thừa để phát triển theo tôi là tối ưu đối với lợi ích đất nước,
(3)  sự lựa chọn con đường cùng đi với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc trên con đường đưa nước ta trở thành một nước phát triển là cách giữ cho Đảng trung thành với trách nhiệm đã cam kết trước dân tộc và bảo vệ Đảng tốt nhất,  
(4)  nguyện vọng sâu xa của nhân dân muốn có cuộc sống hòa bình, ổn định,  để có thể chuyên tâm vào làm ăn sinh sống,
(5)  mong mỏi của các đối tác chiến lược và của bạn bè khắp 5 châu về một Việt Nam hòa bình, ổn định và phát triển,
(6)  món nợ lịch sử Đảng nhất thiết phải trang trải đối với dân tộc [8].  
Đấy có lẽ là con đường chắc chắn nhất dẫn tới cái đích một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh. Cuộc sống vô cùng nghiêm khắc, thiết nghĩ phải suy tính rất kỹ. Một bước đi sai có thể dẫn tới rối loạn, tăng thêm sự cố thủ của quyền lực Đảng, xấu nhất có thể dẫn tới đổ vỡ. 
Sẽ có ý kiến hỏi: Cái đích như thế chính là điều các Nghị quyết Đại hội Đảng đã viết ra cho đến hôm nay, Đảng vẫn theo đuổi đấy thôi! Sao còn bầy vẽ ra lắm chuyện thế? 
Trả lời: Vâng, đúng vẫn là cái đích như vậy, Đại hội XI còn cụ thể hóa cái đích này dài thêm ra vài từ nữa. Song vì bây giờ Đảng chủ yếu là một lực lượng chính trị, không còn lại bao nhiêu cái tính cách là một tổ chức tiền phong chiến đấu lãnh đạo cách mạng nữa, lại tha hóa thành đảng cai trị, nên cái đích Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết nên ấy thực chất chỉ còn lại là một khẩu hiệu, một ước mơ xa vời. Và như đã trình bầy trong các phần trên: Cuộc sống của đất nước không biết chờ đợi. Thế giới cũng không chờ đợi. 
Để giành lại được vai trò lãnh đạo đã từng có này trong giai đoạn phát triển mới của đất nước trong một thế giới đã đổi khác, Đảng phải trở thành đảng của dân tộc, thành lực lượng tinh hoa của dân tộc. Phải nói đòi hỏi này rất cao về toàn diện đối với Đảng: về trí tuệ, về phẩm chất, bản lĩnh, tầm nhìn, ý chí không có gì quý hơn độc lập tự do, tinh thần Tổ quốc trên hết, năng lực tổ chức, tinh thần hy sinh phấn đấu…   
Tôi nghĩ, kể từ ngày thành lập cho đến nay, có lẽ chưa bao giờ Đảng Cộng Sản Việt Nam đứng trước thử thách quyết liệt đến thế, phải đáp ứng những đòi hỏi cao đến thế: Đảng phải đứng trên đôi chân của mình, phải suy nghĩ bằng chính khối óc và trái tim của mình, không mượn kính của người khác để đọc mọi thứ trên đời này, phải tự giải phóng mình trước tiên khỏi nô lệ của mọi giáo lý, phải nhìn nhận sự vật bằng chính con mắt của mình và bằng trí tuệ, bằng bản lĩnh và ý chí không có gì quý hơn độc lập tự do, quyết đưa nước ta trở thành một nước phát triển. Đảng phải dày công trau dồi trí tuệ cũng như phẩm chất của dân tộc mình đã chắt lọc được và của nhân loại, phải tôi luyện tất cả những điều này, và mỗi đảng viên và toàn Đảng phải phấn đấu hoàn thành bằng được.  
Tôi nghĩ Đảng phải đối mặt quyết liệt nhất với những thử thách chưa từng có kể từ khi thành lập, trước hết còn bởi lẽ từng đảng viên và toàn Đảng phải chiến thắng chính mình trước tiên thì mới có đủ bản lĩnh và phẩm chất giành lại và xây dựng nên cho Đảng vai trò lãnh đạo mới như thế. Cuộc chiến đấu để chiến thắng chính mình luôn luôn và mãi mãi là cuộc chiến đấu khó nhất của con người. 
Hay là tiếp tục giữ vai trò đảng trị như hiện nay, để tha hóa tiếp, để sớm muộn đến một lúc nào đó cả chế độ và Đảng cùng kết thúc như nhiều bi kịch đẫm máu đã kết thúc ở nhiều quốc gia? Cảnh báo nóng hổi nhất là sự diệt vong đẫm máu của chủ nghĩa xã hội Gaddafi.[9] Cuộc sống đã khẳng định như một quy luật thép: Chỉ có sự phát triển là liên tục, ngoài ra không có một nền độc tài nào dù tàn ác đến mấy có thể tồn tại mãi. 
Đất nước đòi hỏi toàn dân tộc phải là một khối thống nhất, phải cố kết với nhau xả thân cho một Việt Nam trở thành một nước phát triển. Tình hình nhiệm vụ mới này đòi hỏi Đảng phải thay đổi tất cả, ra sức phấn đấu để trở thành đảng của dân tộc, không thể còn là đảng của giai cấp được nữa.
-   Như vậy là đòi hỏi Đảng phải biến chất và hạ cấp?
-   Không phải. Đấy là đòi hỏi phải nâng Đảng lên một tầm cao mới khó hơn nhiều mà trách nhiệm lịch sử không cho phép Đảng trốn tránh! Xin nói dứt khoát: Nếu trốn tránh hay thất bại, sẽ chính là sự phản bội lại trách nhiệm lịch sử Đảng đã nhận về mình trước dân tộc khi giương cao ngọn cờ cứu nước và xây dựng xã hội mới. 
Sự thật cuộc sống còn có một quy luật của phát triển cao hơn cả phép biện chứng, đó là quy luật của thích nghi, vượt trội và phát triển. Đảng phải ra sức phấn đấu thích nghi với tình hình và nhiệm vụ mới và khác hẳn trước, phải vượt lên trên mặt bằng chung của tinh thần và ý chí phấn đấu trong toàn xã hội, để từ đó phát triển mọi phẩm chất mới cho chính mình vươn lên nắm lấy và xây dựng mới cho Đảng vai trò lãnh đạo. Đảng cầm quyền[10] trong chế độ chính trị một Đảng hay đảng trị không cần hay thậm chí đối kháng với đòi hỏi này.
Cái mà đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới đang rất cần là phải có (a) một đảng lãnh đạo có tầm nhìn của đội ngũ tinh hoa của dân tộc(b) một thế chế chính trị của một nhà nước dân chủ có năng lực mạnh mẽ thực thi pháp luật theo hiến định.
Đảng là lực  lượng lãnh đạo; Nhà nước là bộ máy thực thi những quyền lực của nhân dân ủy thác thông qua Hiến pháp. Đây phải là 2 thực thể khác nhau, ai phải làm đúng chức năng nấy theo quy định của Hiến pháp. Mối quan hệ lãnh đạo của đảng đối với hệ thống nhà nước phải được quy định rành mạch trong Hiến pháp; loại bỏ hẳn thực tế Nhà nước trở thành bộ máy thừa hành quyền lực Đảng. Đảng lãnh đạo và Nhà nước pháp quyền như thế cùng nằm chung trong một thể chế chính trị dân chủ mà quyền lực của Hiến pháp là tối thượng.
Hiển nhiên sẽ phải huy động trí tuệ và công sức thiết kế một hệ thống chính trị dân chủ như thế cho nước ta, của chính nước ta với tính cách là nước đi sau vận dụng mọi thành tựu của văn minh nhân loại, và các bước đi thực hiện. Đây là một nhiệm vụ cụ thể hoàn toàn mới đặt ra cho Đảng, chưa từng bắt tay vào.
Vì vậy, Đảng đang đứng trước đòi hỏi phải thay đổi toàn diện và nỗ lực phấn đấu trở thành đội ngũ tinh hoa của dân tộc, thành đảng của dân tộc. 
Những năm cuối cùng trước khi từ dã cuộc đời này, người chiến sỹ cộng sản kiên trung một lòng vì nước vì dân Võ Văn Kiệt đã không tiếc một nỗ lực nào, không chùn bước trước một trở lực nào, phấn đấu hết mình cho Đảng Cộng Sản Việt Nam phải trở thành đảng của dân tộc. Đã có lúc người đảng viên ĐCSVN Võ Văn Kiệt nói: Tôi sẽ giơ cao tấm thẻ Đảng của mình nói trước các đảng viên có trách nhiệm trong Đảng đòi hỏi bức bách này. Người đảng viên Võ Văn Kiệt đã làm như vậy. Ý chí này cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã manh nha khởi xướng từ trong bức thư ngày 09-08-1995 gửi Bộ Chính trị, bắt đầu bằng đòi hỏi xóa bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ lúc ấy đang được quyền lực Đảng vận dụng tùy tiện.
 
III. Viễn tưởng?

III.1.  Quá trình mở đầu 
 
Hy vọng phần II.1.II.2. nêu trên đã phần nào làm rõ được sự khác biệt quá lớn giữa một bên là cái Đảng đang là và một bên là cái Đảng sẽ phải là trong tình hình và nhiệm vụ mới của đất nước. 
Trong Bài 3 này tôi không dám viết gì nhiều về cái Đảng sẽ phải là. Bởi vì từ tư duy, đến tổ chức, đến thiết kế hệ thống chính trị của thể chế dân chủ trong đó (a) Đảng sẽ phải là đội ngũ tinh hoa của dân tộc để giữ vai trò lãnh đạo, và (b) đến thiết kế Nhà Nước là bộ máy thực hiện quyền lực của nhân dân do nhân dân ủy thác theo Hiến pháp, (c) đến việc thiết kế sao cho cả 2 thực thể này (Đảng và Nhà nước) là 2 thực thể độc lập có quan hệ gắn bó với nhau trong khuôn khổ của Hiến pháp.., (d) đến tiêu chuẩn mới của người đảng viên của Đảng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước… v… v… Tất cả những vấn đề này đều quá lớn so với trí tuệ của một người và lại càng không thể đơn thuần là phỏng theo hiểu biết hay ý muốn chủ quan của một người. Tất cả những điều này phải là kết tinh của trí tuệ, ý chí và nguyện vọng của toàn Đảng và của toàn dân tộc. Rất mong trí tuệ và tâm huyết cả nước và trong Đảng được huy động cho công việc này. 
Tôi chỉ dám hình dung trong đầu, nếu quyết giành lại vai trò lãnh đạo bị tha hóa tước bỏ mất, có lẽ trước tiên Đảng cần thực hiện dân chủ học hỏi lại từ đầu, học hỏi từ lịch sử, từ vốn kinh nghiệm của đất nước và từ kho tàng của văn minh nhân loại, từ những gì đang diễn ra trên thế giới, trang bị lại cho toàn Đảng những nhận thức và kiến thức mới để phân tích lại từ đầu, nhìn nhận lại chính mình và tình hình đất nước một cách trung thực. Như thế, nói theo cụ Phan Châu Trinh, trong Đảng vấn đề tiên dân trí cũng sẽ phải là công việc đầu tiên.    
Nói đi cũng phải nói lại, mọi việc nêu trên không đến nỗi phải bắt đầu từ con số không. Ngay cả trong Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, Hiến pháp 1992, các chủ trương chính sách đã xây dựng được… có không ít những điều đúng đắn, những điều tốt. Song vì sự tha hóa trong toàn bộ hệ thống chính trị, bắt đầu từ sự tha hóa của quyền lực Đảng, biết bao nhiêu điều tốt đẹp ấy đã bị vô hiệu hóa và nhiều thứ chỉ còn lại trên các trang giấy. Tình trạng bị vô hiệu hóa ấy lại tìm cách khắc phục bằng những việc làm phô trương, giả dối – bằng những cái “giả - diễn - hão[11], một trong những ví dụ điển hình là việc thu hoạch kết quả "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"  được đo chủ yếu bằng trọng lượng và số lượng các bài thu hoạch, các trang giấy viết theo giáo án! Do đó trên thực tế chẳng những không tạo ra được những chuyển biến đáng kể nào trong cuộc sống của đất nước, tệ quan liêu tham nhũng không giảm bớt, xã hội tiếp tục xuống cấp,  mà còn tạo thêm những cái “giả - diễn – hão” mới.  
Không dấy lên được trong Đảng và trong cả nước ý chí cự tuyệt cái “giả - diễn - hão” như vậy trong toàn bộ đời sống chính trị đất nước, mọi chuyện cải cách đều sẽ vô nghĩa. Muốn vậy, chỉ có thể bắt đầu từ thực hiện công khai minh bạch và dân chủ, bắt đầu ngay từ tự do ngôn luận, tự do báo chí.[12]
Trên cơ sở nhận thức lại như vậy, có lẽ Đảng cần phải tiến hành một quá trình mở đầu, tiến hành theo các bước: Trước hết là thực hiện dân chủ hóa đời sống mọi mặt của đất nước – bắt đầu từ thực hiện dân chủ trong Đảng, thực hiện công khai minh bạch thực trạng đất nước để làm rõ được mọi vấn đề phải giải quyết. Nhận thức mới xác lập được trong những bước đi đầu tiên này sẽ là cơ sở trí tuệ và ý chí cho việc hoạch định ra một chiến lược cải cách triệt để hệ thống chính trị của đất nước, xây dựng Hiến pháp mới, từng bước thực hiện chiến lược cải cách này theo các bước đi (lộ trình) được quá trình dân chủ hóa và thực hiện công khai minh bạch này vạch ra.  
Toàn bộ quá trình mở đầu này, không thể ước đoán trước lâu mau thế nào, nhưng xin đừng quên đất nước đang chạy đua với thời gian, chạy đua rất quyết liệt. Lỡ một bước chân, hận thiên thu. 
Kết thúc quá trình mở đầu này là hoàn thành công việc cải cách triệt để và toàn diện hệ thống chính trị của đất nước, thiết lập được một nhà nước pháp quyền dân chủ vừa có đủ sức thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, vừa đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi đặt ra cho một quốc gia văn minh trong thế giới hiện đại. 
Công việc của quá trình mở đầu này nên bắt đầu từ và đồng thời với việc thiết kế, thực hiện các bước đi chuyển hóa Đảng thành đảng của dân tộc, thành đảng lãnh đạo. Nhiệm vụ đổi mới xây dựng Đảng trở thành đảng của dân tộc phải cố gắng đi trước một bước trong toàn bộ công cuộc cải cách, mở đường cho việc cải cách toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước. Toàn bộ việc cải cách hệ thống chính trị của đất nước cũng nên đi trước từng bước trong khi đồng thời tiến hành những bước cải cách kinh tế. Tất cả quá trình mở đầu này cần được hậu thuẫn bởi một phong trào duy tân trong toàn xã hội, cổ vũ trong toàn dân hào khí đổi mới chính mình và đổi mới đất nước để cải cách thành công. Tại chính điểm này lại càng cho thấy vấn đề nâng cao dân trí, vấn đề học hỏi và thực hiện công khai minh bạch toàn bộ đời sống đất nước có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Phải thực sự xây dựng một đạo đức xã hội mới trong đời sống mọi mặt của nhân dân làm hậu thuẫn, chính vì lẽ này cần làm sao dấy lên được trong nhân dân một phong trào duy tân. 
Xây dựng (1) đảng lãnh đạo, (2) nhà nước pháp quyền, (3) phát triển xã hội dân sự được phong trào duy tân đất nước thôi thúc, có lẽ đấy là 3 cột trụ phải dựng lên để xây dựng thể chế chính trị dân chủ cho đất nước trong thời kỳ của quá trình mở đầu này, tất cả phải trên nền tảng của kinh tế thị trường được được vận hành theo những kinh nghiệm mới nhất mà thế giới đã rút tỉa ra từ quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới đầy cơ hội và cạm bẫy ngày nay. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang diễn ra chính là cơ hội tốt nhất cho nước ta là nước đi sau rút kinh nghiệm trên các phương diện: lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế theo những sản phẩm mới nước ta có lợi thế nhất, đổi mới phương thức quản lý, thu hút các nguồn lực từ bên ngoài đang cần thị trường. Song chính những cơ hội mới này trên phương diện kinh tế lại thúc bách đất nước ta hơn bao giờ hết phải sớm có một thể chế chính trị dân chủ xây dựng trên 3 cột trụ như thế. 
Quá trình mở đầu này cũng là quá trình Đảng cần phấn đấu giành lại, thiết lập, và hoàn thiện xong vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Ý chí cách mạng cao nhất đối với ĐCSVN là cần hoàn thành nhiệm vụ này trong thời gian sớm nhất có thể. Một khi chế độ dân chủ của nhà nước pháp quyền theo những chuẩn mực nói bên trên được thiết lập xong, Đảng sẽ phải chuyển sang phấn đấu trở thành đảng cầm quyền theo những chuẩn mực trong thể chế dân chủ như tại các quốc gia văn minh.[13] Nghĩa là tới đây, Đảng lại phải phấn đấu nâng cao hơn nữa năng lực, phẩm chất và bản lĩnh của mình với tính cách là đảng của dân tộc, phần đấu đạt tới và để được nhân dân lựa chọn Đảng giữ vai trò đảng cầm quyền trong một chế độ dân chủ, chứ không phải nghiễm nhiên Đảng tiếp tục được hưởng vai trò này. Nói đổi mới xây dựng Đảng trở thành đảng của dân tộc, cùng tồn tại lâu dài trong sự nghiệp phát triển của đất nước, cùng đi với dân tộc là nói theo tinh thần này.  
Trong quá trình mở đầu này, nhất thiết phải phục hồi và tôn vinh mọi giá trị và đạo đức đã bị mai một, nhất là phải chống bằng được bệnh nói dối và mọi sự giả dối – tội lỗi của mọi tội lỗi. Phải dấy lên trong cả nước mọi nỗ lực trau dồi thêm cho toàn xã hội những phẩm chất mới, khả năng và quyền năng của người công dân trong thể chế chính trị dân chủ của một quốc gia văn minh, hun đúc ý chí của dân tộc vì một Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh, dấn thân cùng với trào lưu tiến bộ của thế giới vì hòa bình, tự do, dân chủ, quyền con người và gìn giữ môi trường.