Thứ Năm, 21 tháng 7, 2011

“Thời khắc Munich” của nước Mỹ?


Đôi lời: Dưới đây là hai bài báo có cùng một tựa đề “America’s ‘Munich Moment’?” Một bài được đăng trên The Diplomat của GS James R. Holmes và tiếp theo là bài xã luận trên báo China Daily, phản biện lại bài viết của GS Holmes một cách…xuyên tạc, mà ông David Brown, cựu viên chức ngoại giao Mỹ và là cây viết cho báo Asia Times Online, đã có lời nhận xét sau khi đọc cả hai bài báo như sau:
Sự lựa chọn của báo China Daily - được gọi là bài xã luận? - đã sắp xếp các phần trích dẫn có chọn lọc, làm cho ông [Jim] Webb giống như một kẻ hiếu chiến mù mờ thông tin. Đó là loại báo chí đáng khinh.

Đối với một người thích lịch sử như tôi, bài viết của GS Holmes rất hay. Tôi lưu ý, mà báo China Daily đã không lưu ý điều này, ông Holmes đồng ý rằng một nền hòa bình ổn định ở biển Đông là sự quan tâm của Mỹ và cho dù Bắc Kinh có ý định phá bỏ, theo cách mà họ cho rằng họ có chủ quyền lịch sử trên vùng biển đó. Ông ấy không chắc lúc đó liệu Trung Quốc có được ‘thỏa mãn’ hay không. Ông Holmes kết luận rằng liệu cách sử dụng hình ảnh ẩn dụ Munich của ông Webb có hoàn toàn chính xác hay không, nhưng cách nói thẳng như vậy là đúng lúc và ‘quan trọng đối với những nước là đối thủ tiềm tàng như Trung Quốc ’.
Đọc kỹ những lời nhận xét của ông Webb (như đã được phân loại trên báo Richmond Times-Herald, tờ báo của ông quê hương) cho thấy, ông Webb đã không nói rằng thời khắc Munich đã đến, nhưng nếu sự lấn chiếm liên tục của Trung Quốc đang bị bỏ qua,cuối cùng Mỹ sẽ phải quyết định là có nên đánh hay là để bị làm nhục. Ngoài ra, Afghanistan, Libya, v.v.. là sự phân tâm đã làm Mỹ cho suy giảm khả năng bảo vệ lợi ích quan trọng thực sự ở châu Á“. (*)
The Diplomat

 “Thời khắc Munich” của nước Mỹ?

James R. Holmes
Ngày 17-7-2011


So sánh Đông Á với châu Âu thập niên 1930 thật chẳng có gì chung. Vậy, có phải chính quyền Obama quả thật đang nhân nhượng Trung Hoa một cách vô lối không?
Tôi đã ngưỡng mộ Thượng nghị sĩ James Webb bang Virginia từ cuối những năm 1980, khi tôi là một sĩ quan hải quân Mỹ mới được bổ nhiệm còn ông là Tổng Tham mưu trưởng Hải quân (secretary of the navy). Ngoài những thành tích đạt được trên cương vị người làm chính sách và nhà lập pháp, Webb còn là một cựu chiến binh đánh thủy của Mỹ ở Việt Nam, từng được tặng huy chương; một tiểu thuyết gia, sử gia đáng chú ý, và là con cháu của những người nhập cư Scotland-Ireland đã định cư và góp phần xây dựng nên miền nam nước Mỹ? Có lý do gì để tôi không thích ông? Vì vậy, khi ông phát biểu rằng Mỹ “đang tiến gần đến thời khắc Munich với Trung Hoa” trên biển Hoa Nam (tức Biển Đông – ND), ta rất nên xem xét lời ông một cách nghiêm túc.
Ông nói vậy ngang với việc nạp đạn vào súng. Nếu như có một “thời khắc Munich” đang thành hình, thì ai là nhân vật chính đây? Dường như Webb xếp Trung Hoa vào vai nước Đức quốc xã – một thế lực hung tàn, hám lợi, tìm cách tăng cường ảnh hưởng chính trị của nó và hy sinh quyền lợi của các nước nhỏ. Điều này làm cho Chủ tịch Hồ Cẩm Đào trở thành bản sao của nhà độc tài Đức Adolf Hitler. Tổng thống Obama thì đóng vai Neville Chamberlain, ông thủ tướng Anh mà vào năm 1938 đã đem phần lớn lãnh thổ Czechslovakia ra đổi chác, những mong làm dịu cơn khát đất của Hitler. Chamberlain trở về nhà và được hoan nghênh ồn ã; ông ta tuyên bố là phương Tây đã đàm phán được “hòa bình trong thời đại của chúng ta”. Các nguyên thủ Anh và Pháp cũng tìm cách kéo dài thời gian, đề phòng trường hợp hòa bình tan vỡ. Bằng việc đẩy các nhu cầu của Hitler sang những lãnh thổ của người thiểu số Germain, họ đã có thêm thời gian để tái thiết lực lượng vũ trang, chuẩn bị cho cuộc chiến tranh sắp tới ở châu Âu. Các nước Đông Nam Á bây giờ là nước Czechoslovakia bất lực của ngày ấy. Họ không tài nào ngăn cản nổi việc các siêu cường đem lợi ích sống còn của họ ra mà đổi chác – thậm chí cuối cùng là trao đổi cả sự tồn tại của họ với tư cách quốc gia. Bảng phân vai của Webb có thể chẳng làm cho nhân vật nào trong vở kịch đang được trình diễn trên Biển Đông kia hài lòng.
“Munich” là cách gọi tắt của khái niệm “nhân nhượng vô nguyên tắc”, một khái niệm mà từ năm 1938 đã mang những hàm nghĩa nặng nề. Tuy nhiên cần phải chỉ ra rằng nhân nhượng là sự trao đổi ngoại giao thường gặp trong tình hình bình thường. Các nước đều luôn luôn phải thỏa hiệp, họ cũng nên làm như thế. Liệu Munich – nỗi ô nhục của việc nhân nhượng những con thú ăn thịt người – có phải là một phép ẩn dụ thích đáng để chỉ cách hành xử của Mỹ trong những tranh chấp hàng hải làm đục ngầu nước Biển Đông?
Chúng ta hãy phân tích sự tương đồng để xây dựng một số thông số khi tìm hiểu về các sự kiện trên Biển Đông. Trước hết, Czechoslovakia là đối tượng thứ yếu, không mấy quan trọng, của những kẻ đã thỏa thuận nhân nhượng kia. Mối đe dọa đối với hòa bình, như lời Chamberlain, xuất phát từ “một cuộc cãi vã ở một nước xa xôi, giữa những người mà chúng ta chẳng hiểu gì”. Chiến đấu vì Czechoslovakia gần như là điều mà Anh và Pháp không thể tưởng tượng nổi. Người Mỹ hiếm khi theo dõi tình hình chính trị Đông Nam Á, mặc dù khu vực ngã tư hàng hải này có tầm quan trọng rất lớn đối với mậu dịch toàn cầu và thương mại Mỹ. Các nhà lãnh đạo của Philippines khăng khăng cho rằng hiệp ước an ninh năm 1951 giữa Manila và Washington đã quy định cả những yêu sách chủ quyền trên Biển Đông. Liệu người Mỹ có chiến đấu để bảo vệ những yêu sách đó của Philippines không, hay là những cái đó chỉ là chuyện thứ yếu, cũng giống như chủ quyền của Czechoslovakia trong mắt các cường quốc phương Tây năm 1938?
Thứ hai, phái đoàn Anh-Pháp đã dâng đối tượng thứ yếu này (Czechoslovakia) cho con thú hung dữ đói đất (Đức Quốc xã) để đổi lấy hòa bình tạm thời. Trước đó Hitler đã gom đủ thành tích xâm lược. Vào năm 1936 chẳng hạn, quân đội Đức tái vũ trang vùng Rhineland. Bằng cách ấy, Berlin bắt đầu phá bỏ Hiệp ước Versailles – hiệp ước chấm dứt Thế chiến I và áp đặt nghĩa vụ bồi thường nặng nề lên nước Đức bại trận. Đầu năm 1938, Hitler gây áp lực với Áo, buộc Áo phải chấp nhận Anschluss (Liên minh Đức-Áo), tức liên minh trong một nước Đức đế quốc rộng lớn hơn. Khi đó, tại Munich, các nhà lãnh đạo Pháp và Anh đưa ra một loạt thỏa hiệp có tác dụng kích thích cơn thèm khát của con thú đói đất. Sau khi cho đi Sudetenland – một thành phố công nghiệp của Czechoslovakia, dân cư chủ yếu là người Đức, và là nơi có những rặng núi có thể bảo vệ nền cộng hòa khỏi bị tấn công – London và Paris đã làm tiêu tùng khả năng của Czech chống lại những đòi hỏi của Đức. Chẳng bao lâu sau đó, quân đội Đức chiếm được phần còn lại của Czechoslovakia.
Một cách khác để nhìn vào câu chuyện Biển Đông là thế này: Có phải Bắc Kinh đã lập được thành tích xâm lược rõ ràng tương tự, tiến đến bất kỳ thỏa thuận nào giữa Mỹ và Trung Quốc, bán rẻ chính phủ các nước Đông Nam Á thân thiện – một kết quả mà Washington lẽ ra phải thấy trước và tránh đi? Có thể lắm, nhưng cũng cần nhớ lại là, thậm chí ngay cả người kế nhiệm Chamberlain là Winston Churchill cũng đã rất hào phóng. Trong bài diễn văn ca tụng Chamberlain, Churchill cảnh cáo người nào có ý định phán xét một vụ việc như thỏa ước Munich “mà không tính đến hoàn cảnh ra đời của nó”. Ông ta nhận xét rằng các nhà lãnh đạo:
“Những người thiên về cảm tính thường hay tìm kiếm những giải pháp rành mạch dứt khoát để giải quyết những vấn đề phức tạp và tối tăm; những người sẵn sàng chiến đấu bất kỳ khi nào bị một thế lực ngoại quốc đe dọa; không phải bao giờ cũng đúng. Mặt khác, những người có xu hướng cúi đầu, nhẫn nại và kiên định tìm đến các thỏa hiệp hòa bình, thì không phải bao giờ cũng sai. Ngược lại, trong đa số trường hợp, họ có thể đúng, không chỉ đúng về mặt đạo đức mà còn đúng khi xét từ quan điểm thực tiễn… Biết bao nhiêu cuộc chiến tranh đã xảy ra vì những kẻ xúi giục bạo loạn!”.
Còn hơn thế nữa, trong suốt thời gian tại vị thủ tướng sau cuộc Thế chiến, Churchill vẫn tiếp tục cho rằng “đối thoại luôn tốt hơn chiến tranh”. Những lời ấy không thể là của một nhà lãnh đạo, người đã tự động bác bỏ mọi thỏa hiệp ngay cả với kẻ gây hấn tiềm năng như Hitler, Joseph Stalin hay Nikita Khrushev. Thu gọn tất cả những tranh cãi quốc tế vào một thỏa ước Munich có lẽ là sự đơn giản hóa thái quá – và sai lầm. Washington nên đối thoại, hay là đã đến lúc phải đứng lên đối đầu với Bắc Kinh, thay mặt cho chính phủ các nước Đông Nam Á thân thiện?
Thứ ba, các cường quốc phương Tây đã hy sinh lợi ích sống còn của bên thứ ba mà không hề hỏi ý kiến bên thứ ba đó. Hội nghị Munich không có sự tham dự của Tổng thống Czechoslovakia Edvard Beneš, dù nước của ông là nhân vật có quyền lợi chính yếu trong tranh chấp. Nhượng đất Sudetenland, hội nghị đã đồng thuận cao với việc phá hoại nền kinh tế, công nghiệp và tài nguyên của Czechoslovakia. Nếu bây giờ sự kiện thỏa ước Munich lặp lại, thì nghĩa là Mỹ và Trung Quốc sẽ quyết định tương lai của Biển Đông mà không hề hỏi xem chính phủ các nước Đông Nam Á có tán thành không. Nếu Obama đóng vai Chamberlain, ông ta sẽ lựa chọn một cách thiếu khôn ngoan: khuyến khích Bắc Kinh cố cưỡng ép các chính phủ châu Á phải tiếp tục nhượng bộ.
Lịch sử luôn lặp lại nhưng không hoàn toàn như cũ. Ở đây cũng vậy. Còn phải xem liệu Biển Đông – hệ thống đường biển rộng lớn nơi Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton và các nhân vật quyền cao chức trọng khác liên tục tuyên bố là “thuộc lợi ích quốc gia của Mỹ” – có bị Washington xếp vào hàng đối tượng thứ yếu không? Có một dấu hiệu cho thấy không phải như vậy: Chiến lược Biển 2007 của Mỹ – văn bản hướng dẫn Hải quân, Thủy quân Lục chiến và các hoạt động tuần duyên của Hoa Kỳ – trên thực tế đã nêu rõ rằng Mỹ sẽ tiếp tục là cường quốc hải quân hàng đầu ở Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương trong khoảng thời gian dự kiến được trong tương lai. Nếu Washington nghiêm túc với việc này, thì họ khó có thể xếp xó Đông Nam Á – khu vực nối giữa hai đại dương – vào vị trí “để đó tính sau”. Nói theo cách của Chamberlain, Biển Đông có lẽ là một dải đất ở xa, trong khi người Mỹ ít quan tâm tới các vấn đề (gần) của khu vực. Họ khó có thể thờ ơ đứng nhìn nó.
Liệu nhượng bộ có khiến Trung Quốc làm tới, có khiến quyền lực của họ phình to thêm trong khi hy sinh lợi ích của các nước láng giềng không? Đây là câu hỏi mấu chốt cho những người đang quan sát Trung Quốc. Giải quyết các vấn đề nảy sinh trong vùng biển kế cận Trung Quốc, gồm Biển Đông, Đài Loan, tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, và những chuyện tương tự, có thể làm Bắc Kinh hài lòng. Quả thật, những xung đột đó toàn rơi vào vùng biển ngoại vi lịch sử của Trung Quốc, nơi mà Trung Quốc cho là đường của họ. Nhưng cũng có thể sẽ có những món khai vị, như Đức Quốc xã đã từng khai vị bằng Rhineland, Áo, và Czechoslovakia. Trung Quốc sẽ no nê, thỏa mãn, hay sẽ tìm kiếm thêm các món ăn ngon miệng khác? Đây là điều còn chưa biết được.
Và cuối cùng, khó mà tin rằng Washington sẽ gạt các chính phủ Đông Nam Á ra khỏi những cuộc bàn thảo về tương lai của họ. Quả thật, lập trường truyền thống của Mỹ đối với các yêu sách về chủ quyền trên biển là không theo lập trường nào cả. Nói chung Mỹ chỉ khẳng định rằng các bên cần giải quyết mâu thuẫn mà không sử dụng bạo lực, và bất kỳ bên nào chiến thắng trong tình trạng hỗn loạn về chủ quyền và quyền tài phán trên biển thì đều phải duy trì tự do hàng hải, thể hiện qua tự do trên vùng biển và vùng trời của khu vực. Chính quyền Obama, cũng giống như chính phủ của ông Chamberlain, có thể tham gia sâu hơn vào những vụ việc ở Đông Nam Á. Nhưng nếu họ tự chỉ định mình vào vị trí phát ngôn viên cho các chính phủ Đông Nam Á thì có lẽ sẽ hơi gượng gạo.
Phép so sánh lịch sử của Thượng nghị sĩ Webb có đúng hay không thì còn tùy mắt người nhìn. Thỏa ước Munich đã đem lại một cái chuẩn tuyệt vời để ta dựa vào đó mà theo dõi quan hệ Mỹ-Trung, bất kể sự tương đồng có hoàn hảo hay không. Hơn nữa việc ông Webb nổi tiếng là người nói thẳng, nói toạc tình hình khu vực, có thể sẽ giúp cho lợi ích của nước Mỹ và khu vực. Thẳng thắn với chính mình và với bè bạn mình về các vấn đề nguy hiểm là rất quan trọng và thậm chí còn quan trọng hơn thế nữa, khi ta có những kẻ cạnh tranh tiềm tàng như Trung Quốc.
James Holmes là phụ  tá giáo sư chiến lược ở trường Cao đẳng Hải chiến Hoa Kỳ. Quan điểm trong bài này là của riêng tác giả.
Người dịch: Đan Thanh
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011
——

Thời khắc Munich của Mỹ?

18-7-2011
Dường như không chắc Mỹ sẽ bổ nhiệm phát ngôn viên của nước này cho các chính phủ châu Á ở Biển Đông – James Holmes, phụ tá giáo sư về chiến lược ở trường Cao đẳng Hải chiến Mỹ – nhận định trong một bài báo trên trang The Diplomat ngày 17/07/2011. 
Ông Holmes dẫn lời thượng nghị sĩ bang Virginia James Webbs  rằng Mỹ đang “đến gần thời khắc Munich với Trung Quốc” ở Biển Đông và các nước Đông Nam Á, giống như một Tiệp Khắc bất lực, không thể ngăn chặn được các cường quốc lớn bán chác các lợi ích sống còn của họ và thậm chí cả sự tồn tại của chính đất nước họ. 
Nhưng chắc chắn đó không phải là một phép ẩn dụ dễ để Mỹ hành động về những tranh chấp lãnh hải vốn đang khuấy đảo Biển Đông, ông Holmes đánh giá.
Thứ nhất, vẫn còn phải xem liệu Biển Đông có là một ưu tiên đối với Washington hay không, theo ông Holmes. Cũng như cuộc đấu tranh cho Tiệp Khắc gần như không thể hình dung với Anh và Pháp, người Mỹ ít khi bám sát các hoạt động chính trị ở Đông Nam Á, bất kể tầm quan trọng của giao lộ hàng hải này đối với thương mại của Mỹ và toàn cầu. “Các nhà lãnh đạo Philippines xác nhận hiệp ước an ninh năm 1951 giữa Manila và Washington bao gồm các tuyên bố lãnh hải ở Biển Đông. Tuy nhiên, liệu Mỹ có chiến đấu để bảo vệ những tuyên bố như vậy? Hay chúng, cũng giống như chủ quyền của Czech đối với các cường quốc phương Tây năm 1938, chỉ là việc thứ yếu?”.
Thứ hai, rút gọn những tranh cãi quốc tế thành Munich có thể đơn giản hóa quá mức và khiến người ta nghĩ sai, theo ông Holmes. Thực tế, trong nhiệm kỳ Thủ tướng thời hậu chiến, Churchill cho rằng “Đàm phán luôn tốt hơn chiến tranh”. Holmes đặt ra câu hỏi: “Có tốt hơn cho Mỹ khi đàm phán, hay có thời gian để tới đối đầu với Bắc Kinh nhân danh các chính phủ thân thiện ở Đông Nam Á?”.
Thứ 3, nếu sự tương đồng Munich ăn khớp, thì Mỹ và Trung Quốc sẽ quyết định tương lai của Biển Đông mà không cần đến sự ưng thuận của các chính phủ Đông Nam Á. “Nếu Obama đóng vai trò của Chamberlain, ông sẽ lựa chọn một cách thiếu khôn ngoan – khuyến khích Bắc Kinh bòn rút những nhượng bộ mới từ các chính phủ Đông Nam Á”. 
Và sau cùng, không chắc Washington sẽ loại trừ các chính phủ Đông Nam Á khỏi các cuộc bàn thảo về tương lai của chính họ, Holmes nhận định. “Vì vậy, lập trường xưa nay cả Mỹ về các tuyên bố chủ quyền lãnh hải là không theo lập trường nào. Mỹ chủ yếu yêu cầu các bên liên quan cần giải quyết những khác biệt của họ mà không viện đến vũ khí, và rằng bất kể sức mạnh nào chiến thắng trong mớ hỗn độn về chủ quyền lãnh hải và quyền thực thi pháp lý đều duy trì việc tự do đi lại qua các vùng biển và bầu trời khu vực”.
Người dịch: Trúc An
———
(*) Nguyên văn của ông David Brown:
The China Daily selection — is it supposed to be an editorial? — manages by selective quotation to make Webb sound like an ill-informed warmonger.  That sort of journalism is contemptible.
For a history buff like me, the article by Professor Holmes is good reading.  I note, as China Daily did not, that Holmes agrees that a stable peace in the SCS is a US interest and regards Beijing as intent on upsetting it, getting its way on its ‘historic periphery.’  He’s not sure if China would then be ‘satiated.’  Holmes concludes that whether or not Webb’s Munich metaphor is fully accurate, such blunt talk is timely and ‘important with prospective competitors like China.’
A careful reading of Webb’s remarks (as digested in the Richmond Times-Herald, his hometown newspaper) shows that Webb was not saying that the Munich moment has arrived but that, if repeated Chinese encroachments are ignored, ultimately the US will have to decide whether to fight or be humiliated.  Also, that Afghanistan, Libya, etc. are a distraction that have already impaired American ability to protect truly vital interests in Asia.”
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011