Với việc một số nhân tố cấu thành nên sức mạnh tổng hợp quốc gia của Trung Quốc có bước phát triển nhanh trong khi cơ cấu thể chế tồn tại từ thời xa xưa của nhà nước phản ứng dưới mức hiệu quả trong việc giải quyết những mâu thuẫn ngày một tăng, nguy cơ Trung Quốc sử dụng các công cụ quân sự để bảo vệ các lợi ích cốt lõi và/hoặc để giải quyết các tranh chấp với các nước láng giềng về mặt lý thuyết là có thực.
Những kẽ hở trong hình thái chiến lược tấn công
Những thay đổi về cách thức tiếp cận chiến tranh của Trung Quốc trong lĩnh vực học thuyết diễn ra song song với những thay đổi mạnh mẽ trong khả năng tổ chức và tiềm lực tác chiến của các cỗ máy chiến tranh của Trung Quốc. Tất cả những điều này đã xảy ra đồng thời với một sự thay đổi trong nhận thức về mối đe doạ của Trung Quốc. Sự tan rã của Liên Xô đã làm giảm nguy cơ của một cuộc chiến tranh tổng lực xuống còn bằng không. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại hàng loạt những điểm nóng. Tình hình đó buộc các nhà lãnh đạo và các nhà hoạch định quân sự Trung Quốc phải tính toán đến nguy cơ không thể tránh khỏi của "các cuộc chiến tranh cục bộ". Tuy vậy, tốc độ và tính chất ác liệt của cuộc Chiến tranh vùng Vịnh buộc các nhà chiến lược Trung Quốc phải suy tính "những cuộc chiến tranh cục bộ diễn ra trong những điều kiện hiện đại".
Trong khi việc thay đổi hình thái chiến lược của Trung Quốc là một thực tế tất yếu, quyết định lựa chọn giải pháp quân sự "tiến công" - "phòng ngự" đặc biệt khi liên quan đến các nước ở khu vực ngoại biên bao gồm cả Ấn Độ không phải là điều dễ dàng đối với các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc.
Những đề xuất của "học thuyết tấn công-phòng ngự" (ODT) trong khía cạnh chính trị quân sự, nhất là của Stephen Van Evera, Geroge H. Quester, Thomas J. Christensen, Keir A. Lieber và Jack Snyder, là những phát kiến có giá trị, cho dù có những phương pháp tiếp cận khác nhau về mối quan hệ giữa công nghệ và chiến lược, và giữa các tham biến độc lập và phụ thuộc. Họ quan niệm Cán cân Tiến công-Phòng ngự (ODB) là yếu tố quyết định hàng đầu.
Trong số các nhà lý luận quân sự Trung Quốc đương đại, Xu Jin và Tang Shiping có xu hướng tán thành vai trò nổi bật của nhân tố ODB trong các quyết định chiến lược trên chiến trường - tiến công hoặc phòng ngự.
Mặc dù khả năng dự báo của học thuyết này không phải là tuyệt đối, những thay đổi trong ODB của Trung Quốc đối với nước láng giềng này hay nước láng giềng khác kể cả Ấn Độ có thể là một dấu hiệu của hình thái chiến lược phòng ngự và/hoặc tiến công của Trung Quốc.
Căn cứ vào những yếu tố của "chủ thuyết phòng ngự", người ta khó có thể hình dung rằng giới lãnh đạo và các nhà chỉ huy quân sự Trung Quốc sẽ lựa chọn hình thái chiến lược tiến công cho dù ODB nghiêng về việc bảo vệ các lợi ích quốc gia. Tấn công phủ đầu như là một phần của hình thái chiến lược tiến công sẽ làm hao tổn các nguồn lực quân sự, kinh tế và ngoại giao của Trung Quốc mà không đem lại kết quả cụ thể nào.
Những thay đổi về cách thức tiếp cận chiến tranh của Trung Quốc trong lĩnh vực học thuyết diễn ra song song với những thay đổi mạnh mẽ trong khả năng tổ chức và tiềm lực tác chiến của các cỗ máy chiến tranh của Trung Quốc. Tất cả những điều này đã xảy ra đồng thời với một sự thay đổi trong nhận thức về mối đe doạ của Trung Quốc. Sự tan rã của Liên Xô đã làm giảm nguy cơ của một cuộc chiến tranh tổng lực xuống còn bằng không. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại hàng loạt những điểm nóng. Tình hình đó buộc các nhà lãnh đạo và các nhà hoạch định quân sự Trung Quốc phải tính toán đến nguy cơ không thể tránh khỏi của "các cuộc chiến tranh cục bộ". Tuy vậy, tốc độ và tính chất ác liệt của cuộc Chiến tranh vùng Vịnh buộc các nhà chiến lược Trung Quốc phải suy tính "những cuộc chiến tranh cục bộ diễn ra trong những điều kiện hiện đại".
Trong khi việc thay đổi hình thái chiến lược của Trung Quốc là một thực tế tất yếu, quyết định lựa chọn giải pháp quân sự "tiến công" - "phòng ngự" đặc biệt khi liên quan đến các nước ở khu vực ngoại biên bao gồm cả Ấn Độ không phải là điều dễ dàng đối với các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc.
Những đề xuất của "học thuyết tấn công-phòng ngự" (ODT) trong khía cạnh chính trị quân sự, nhất là của Stephen Van Evera, Geroge H. Quester, Thomas J. Christensen, Keir A. Lieber và Jack Snyder, là những phát kiến có giá trị, cho dù có những phương pháp tiếp cận khác nhau về mối quan hệ giữa công nghệ và chiến lược, và giữa các tham biến độc lập và phụ thuộc. Họ quan niệm Cán cân Tiến công-Phòng ngự (ODB) là yếu tố quyết định hàng đầu.
Trong số các nhà lý luận quân sự Trung Quốc đương đại, Xu Jin và Tang Shiping có xu hướng tán thành vai trò nổi bật của nhân tố ODB trong các quyết định chiến lược trên chiến trường - tiến công hoặc phòng ngự.
Mặc dù khả năng dự báo của học thuyết này không phải là tuyệt đối, những thay đổi trong ODB của Trung Quốc đối với nước láng giềng này hay nước láng giềng khác kể cả Ấn Độ có thể là một dấu hiệu của hình thái chiến lược phòng ngự và/hoặc tiến công của Trung Quốc.
Căn cứ vào những yếu tố của "chủ thuyết phòng ngự", người ta khó có thể hình dung rằng giới lãnh đạo và các nhà chỉ huy quân sự Trung Quốc sẽ lựa chọn hình thái chiến lược tiến công cho dù ODB nghiêng về việc bảo vệ các lợi ích quốc gia. Tấn công phủ đầu như là một phần của hình thái chiến lược tiến công sẽ làm hao tổn các nguồn lực quân sự, kinh tế và ngoại giao của Trung Quốc mà không đem lại kết quả cụ thể nào.
Ảnh THX |
Có thể là tốt hơn nếu Trung Quốc giấu mình sau tấm màn chính trị quân sự của một cường quốc quân sự lớn cho đến tận lúc những tiến bộ về công nghệ đủ khả năng tạo ra những lợi thế tiến công cho nước này. Đây là một điềm báo rằng những tông đồ của "học thuyết tiến công" của John J. Mearsheimer trong nhóm các học giả Trung Quốc không giành được thế thượng phong.
Công nghệ quân sự và chiến lược quân sự lần lượt là những tham biến độc lập và phụ thuộc của ODB trong ODT. Trong quá trình ra quyết định, lợi thế chiến thuật và chiến lược trước mỗi quốc gia và/hoặc nhóm quốc gia sẽ chỉ được viện dẫn sau cùng để phòng khi lợi thế đó có thể có những tác dụng ngược. Lẽ dĩ nhiên, một lợi thế nào đó không thể là tuyệt đối ở mọi thời điểm và trước mọi đối thủ.
Công nghệ quân sự về bản chất vừa mang tính phòng ngự vừa mang tính tiến công. Bởi vậy những thiếu sót sẽ là tiền đề dẫn đến những rủi ro sau này.
Từ lâu, năng lực đánh trả một cuộc tấn công hạt nhân thường được hiểu là dấu hiệu cho thấy khả năng vượt trội của phòng ngự trong cán cân tiến công-phòng ngự, đặc biệt là để đảm bảo an ninh cho nước sở hữu năng lực đó. Trung Quốc từ lâu đã nỗ lực phấn đấu để đạt được khả năng đó. Tuy nhiên, nước này vẫn còn phải vượt qua một số dấu mốc trong hình thái chiến lược tiến công. Kỷ nguyên chiến tranh thông tin đã đến để biến tất cả các lợi thế của Trung Quốc thành hiện thực. Binh pháp Tôn Tử thể hiện quan điểm "chiến thắng mà không cần đến chiến tranh". Giới lãnh đạo và các nhà hoạch định quân sự Trung Quốc có thể tận dụng tất cả các điểm dừng cho hình thái chiến lược tiến công chỉ khi mà "lợi thế chiến lược và hình thái chiến lược" trước đối phương tỏ ra phát huy tác dụng.
Những nguy cơ mà Trung Quốc có thể phải đối mặt và biện pháp đối phó
ODB của Trung Quốc phát huy tác dụng tích cực trước hầu hết các nước láng giềng. Ngoài tác dụng làm vô hiệu hoá các nhân tố ODB phái sinh, khả năng Trung Quốc sử dụng sức mạnh quân sự giải quyết các vấn đề liên quan đến các lợi ích chính là rất cao. Với việc một số nhân tố cấu thành nên sức mạnh tổng hợp quốc gia (zonghe guoli) của Trung Quốc có bước phát triển nhanh trong khi cơ cấu thể chế tồn tại từ thời xa xưa của nhà nước phản ứng dưới mức hiệu quả trong việc giải quyết những mâu thuẫn ngày một tăng trong cái mà người dân Trung Quốc gọi là quản lý xã hội (shehui guanli), nguy cơ Trung Quốc sử dụng các công cụ quân sự để bảo vệ các lợi ích cốt lõi và/hoặc để giải quyết các tranh chấp với các nước láng giềng với ODB tương đối thấp về mặt lý thuyết là có thực.
Điệp khúc của Chen Xiangyang và những đồng nghiệp khác của ông ta phát trên các phương tiện truyền thông để cổ vũ cho Trung Quốc áp dụng hình thái chiến lược tấn công trong trường hợp đối mặt với tình trạng bất ổn của các nước láng giềng có thể trở thành sự thật để đáp ứng các mục đích thực tế trong thời gian sắp tới.
Những tác động xấu của các cuộc khủng hoảng diễn ra vào tháng 4/2010 ở Kyrgyzstan đến các phong trào chính trị ở Khu vực tự trị của người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương (XUAR) có lẽ khiến Trung Quốc phải quan ngại. Thủ phủ Ô Lỗ Mục Tề (Ulumuqi) của khu tự trị Tân Cương chỉ cách tỉnh Osh (nơi diễn ra các cuộc bạo loạn) ở miền Nam Kyrgyzstan một giờ bay. Như chủ bút của tờ Global Times nhận định, Trung Quốc lo sợ một cuộc khủng hoảng giống như đã diễn ra ở khu vực Ban Căng làm phương hại đến các lợi ích chiến lược của nước này.
Nhiều nhà nghiên cứu Trung Quốc trong đó có Xu Xiaotian, một chuyên gia về Trung Á làm việc ở Viện Quan hệ Quốc tế đương đại Trung Quốc (CICIR) và Dong Manyuan, một chuyên gia về khống khủng bố tại Viện Nghiên cứu Quốc tế Trung Quốc (CIIS) tỏ ra quan ngại với tính hiệu quả của các biện pháp an ninh khu vực nhằm chặn đứng những diễn biến bất lợi. Nhân tố Nga gián tiếp ngáng đường giới lãnh đạo và các nhà hoạch định quân sự Trung Quốc, buộc họ phải tính toán đến các biện pháp quân sự chung cuộc cho tương lai.
Kazakhstan, Tajikistan, Uzbekistan và Turkmenistan, tổng cộng có hơn 60 triệu người thuộc các sắc tộc Kazakh, Tajik, Uzbek, và Turkmen. Họ có thể cảm thông với khát vọng chính trị của những người anh em của họ và có thể chờ đợi một số phận khác biệt hơn một chút.
Theo quan điểm chung của Chen Xiangyang và các đồng nghiệp của ông, các nước ở khu vực ngoại biên mà ở trong tình trạng bất ổn về chính trị thì cũng sẽ rơi vào tầm ngắm của hình thái chiến lược tấn công của Trung Quốc. Ở Nam Á, ngoài Ápganítxtan và Ấn Độ, hình thái chiến lược này cũng áp dụng với đồng minh thân thiết Pakistan. Ở Đông Nam Á, là Thái Lan và Myanmar, và ở khu vực Đông Bắc Á, là Mông Cổ, bán đảo Triều Tiên. Mặc dù hơi gò ép, các nhà chiến lược Trung Quốc buộc phải áp dụng thế chiến lược tấn công với trường hợp Nhật Bản.
Chen Xiangyang và các đồng nghiệp của ông cũng nhận thức được gót chân Asin của Trung Quốc. Trong khi cảnh báo về "hiệu ứng đôminô" ở khu vực láng giềng bất ổn, và đề xuất tính cấp thiết của việc áp dụng hình thái chiến lược tiến công, họ cũng kêu gọi phải cẩn trọng tránh liều lĩnh mù quáng và phải biết phân biệt giữa hiện tượng bất ổn chính trị diễn ra theo những chu kỳ nhất định ở những nền dân chủ lớn với tình trạng gần như vô chính phủ ở những quốc gia có nền dân chủ giả tạo. Ấn Độ, Hàn Quốc và Pakítxtan thuộc về nhóm thứ nhất trong khi đó Ápganítxtan, Pakítxtan, Myanmar, và Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (DPRK) thuộc vào nhóm thứ hai.
Kết quả nghiên cứu từ những phát triển gần đây cho thấy cần phải chú ý đến những động thái của Trung Quốc trong việc hậu thuẫn cho các cỗ máy chiến tranh, nhất là việc cung cấp hậu cần. Christina Lin đề cập đến vùng "hiểm hoạ Trung Hoa", nơi mà những mạng lưới đường sắt hiện có và/hoặc sắp được xây dựng hứa hẹn giúp triển khai quân nhanh. Sự quan ngoại của bà đã nhận được sự chia sẻ của nhiều nhà phân tích, đáng chú ý có Konstantin Syroyezhkin đến từ Viện Nghiên cứu Chiến lược của Kazakhstan. Một số lần di chuyển quân của PLA gần đây, tiến hành thông qua mạng lưới đường sắt của Trung Quốc, được đánh giá như là một cuộc thử nghiệm vô thưởng vô phạt.
Đầu tháng 9/2010, Trung Quốc tiến hành di chuyển trên quy mô lớn một lực lượng của PLA, bao gồm hơn 1.000 sĩ quan lục quân và binh lính, một đơn vị làm nhiệm vụ đảm bảo hậu cần và một đơn vị tác chiến đường không đến Kazakhstan bằng đường tàu hoả. Hai tháng sau, vào tháng 11/2010, PLA lại di chuyển một lực lượng lớn từ địa điểm tổ chức Hội chợ World Expo ở Thượng Hải về các đơn vị ở Nam Kinh.
Những sự kiện này là phép thử đối với khả năng tung phóng lực lượng của Trung Quốc. Trung Quốc đã cho xây dựng các tuyến đường sắt đến Tây Tạng, và sắp tới nước này sẽ có tuyến đường sắt kết nối với Nepal. Trung Quốc đang có kế hoạch xây dựng tuyến đường sắt cao tốc đến Lào, Singapore, Campuchia, Việt Nam, Thái Lan và Myanmar. Iran, Afghanistan, và Tajikistan đã đồng ý hợp tác với Trung Quốc để xây dựng một tuyến đường sắt Trung Quốc-Iran chạy từ Tân Cương qua Kyrgyzstan, Tajikistan, Afghanistan, và điểm cuối là Iran. Như là một phần của Tuyến đường sắt xuyên Á do Liên Hợp quốc tài trợ, tuyến đường sắt này sẽ mở rộng theo hướng tây đến Irắc, Xêri, Thổ Nhĩ Kỳ, và kết nối với châu Âu. Phụ thuộc vào nhiều tham biến phụ thuộc và bổ sung, hình thái chiến lược tiến công của Trung Quốc do đó về mặt giả thiết có thể tác động đến tất cả những quốc gia này.
Các biện pháp đối phó với hình thái chiến lược tiến công của Trung Quốc phải đa chiều. Chúng có thể tạm gọi với cái tên quy tắc ngón tay cái. Trong khuôn khổ của ODT, các nước ngoại biên sẽ phải thiết lập một hàng rào hợp tác tập thể, đồng thời củng cố sức mạnh cứng và mềm của ODB để đối phó với hình thái chiến lược tiến công của Trung Quốc.
Công nghệ quân sự và chiến lược quân sự lần lượt là những tham biến độc lập và phụ thuộc của ODB trong ODT. Trong quá trình ra quyết định, lợi thế chiến thuật và chiến lược trước mỗi quốc gia và/hoặc nhóm quốc gia sẽ chỉ được viện dẫn sau cùng để phòng khi lợi thế đó có thể có những tác dụng ngược. Lẽ dĩ nhiên, một lợi thế nào đó không thể là tuyệt đối ở mọi thời điểm và trước mọi đối thủ.
Công nghệ quân sự về bản chất vừa mang tính phòng ngự vừa mang tính tiến công. Bởi vậy những thiếu sót sẽ là tiền đề dẫn đến những rủi ro sau này.
Từ lâu, năng lực đánh trả một cuộc tấn công hạt nhân thường được hiểu là dấu hiệu cho thấy khả năng vượt trội của phòng ngự trong cán cân tiến công-phòng ngự, đặc biệt là để đảm bảo an ninh cho nước sở hữu năng lực đó. Trung Quốc từ lâu đã nỗ lực phấn đấu để đạt được khả năng đó. Tuy nhiên, nước này vẫn còn phải vượt qua một số dấu mốc trong hình thái chiến lược tiến công. Kỷ nguyên chiến tranh thông tin đã đến để biến tất cả các lợi thế của Trung Quốc thành hiện thực. Binh pháp Tôn Tử thể hiện quan điểm "chiến thắng mà không cần đến chiến tranh". Giới lãnh đạo và các nhà hoạch định quân sự Trung Quốc có thể tận dụng tất cả các điểm dừng cho hình thái chiến lược tiến công chỉ khi mà "lợi thế chiến lược và hình thái chiến lược" trước đối phương tỏ ra phát huy tác dụng.
Những nguy cơ mà Trung Quốc có thể phải đối mặt và biện pháp đối phó
ODB của Trung Quốc phát huy tác dụng tích cực trước hầu hết các nước láng giềng. Ngoài tác dụng làm vô hiệu hoá các nhân tố ODB phái sinh, khả năng Trung Quốc sử dụng sức mạnh quân sự giải quyết các vấn đề liên quan đến các lợi ích chính là rất cao. Với việc một số nhân tố cấu thành nên sức mạnh tổng hợp quốc gia (zonghe guoli) của Trung Quốc có bước phát triển nhanh trong khi cơ cấu thể chế tồn tại từ thời xa xưa của nhà nước phản ứng dưới mức hiệu quả trong việc giải quyết những mâu thuẫn ngày một tăng trong cái mà người dân Trung Quốc gọi là quản lý xã hội (shehui guanli), nguy cơ Trung Quốc sử dụng các công cụ quân sự để bảo vệ các lợi ích cốt lõi và/hoặc để giải quyết các tranh chấp với các nước láng giềng với ODB tương đối thấp về mặt lý thuyết là có thực.
Điệp khúc của Chen Xiangyang và những đồng nghiệp khác của ông ta phát trên các phương tiện truyền thông để cổ vũ cho Trung Quốc áp dụng hình thái chiến lược tấn công trong trường hợp đối mặt với tình trạng bất ổn của các nước láng giềng có thể trở thành sự thật để đáp ứng các mục đích thực tế trong thời gian sắp tới.
Những tác động xấu của các cuộc khủng hoảng diễn ra vào tháng 4/2010 ở Kyrgyzstan đến các phong trào chính trị ở Khu vực tự trị của người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương (XUAR) có lẽ khiến Trung Quốc phải quan ngại. Thủ phủ Ô Lỗ Mục Tề (Ulumuqi) của khu tự trị Tân Cương chỉ cách tỉnh Osh (nơi diễn ra các cuộc bạo loạn) ở miền Nam Kyrgyzstan một giờ bay. Như chủ bút của tờ Global Times nhận định, Trung Quốc lo sợ một cuộc khủng hoảng giống như đã diễn ra ở khu vực Ban Căng làm phương hại đến các lợi ích chiến lược của nước này.
Nhiều nhà nghiên cứu Trung Quốc trong đó có Xu Xiaotian, một chuyên gia về Trung Á làm việc ở Viện Quan hệ Quốc tế đương đại Trung Quốc (CICIR) và Dong Manyuan, một chuyên gia về khống khủng bố tại Viện Nghiên cứu Quốc tế Trung Quốc (CIIS) tỏ ra quan ngại với tính hiệu quả của các biện pháp an ninh khu vực nhằm chặn đứng những diễn biến bất lợi. Nhân tố Nga gián tiếp ngáng đường giới lãnh đạo và các nhà hoạch định quân sự Trung Quốc, buộc họ phải tính toán đến các biện pháp quân sự chung cuộc cho tương lai.
Kazakhstan, Tajikistan, Uzbekistan và Turkmenistan, tổng cộng có hơn 60 triệu người thuộc các sắc tộc Kazakh, Tajik, Uzbek, và Turkmen. Họ có thể cảm thông với khát vọng chính trị của những người anh em của họ và có thể chờ đợi một số phận khác biệt hơn một chút.
Theo quan điểm chung của Chen Xiangyang và các đồng nghiệp của ông, các nước ở khu vực ngoại biên mà ở trong tình trạng bất ổn về chính trị thì cũng sẽ rơi vào tầm ngắm của hình thái chiến lược tấn công của Trung Quốc. Ở Nam Á, ngoài Ápganítxtan và Ấn Độ, hình thái chiến lược này cũng áp dụng với đồng minh thân thiết Pakistan. Ở Đông Nam Á, là Thái Lan và Myanmar, và ở khu vực Đông Bắc Á, là Mông Cổ, bán đảo Triều Tiên. Mặc dù hơi gò ép, các nhà chiến lược Trung Quốc buộc phải áp dụng thế chiến lược tấn công với trường hợp Nhật Bản.
Chen Xiangyang và các đồng nghiệp của ông cũng nhận thức được gót chân Asin của Trung Quốc. Trong khi cảnh báo về "hiệu ứng đôminô" ở khu vực láng giềng bất ổn, và đề xuất tính cấp thiết của việc áp dụng hình thái chiến lược tiến công, họ cũng kêu gọi phải cẩn trọng tránh liều lĩnh mù quáng và phải biết phân biệt giữa hiện tượng bất ổn chính trị diễn ra theo những chu kỳ nhất định ở những nền dân chủ lớn với tình trạng gần như vô chính phủ ở những quốc gia có nền dân chủ giả tạo. Ấn Độ, Hàn Quốc và Pakítxtan thuộc về nhóm thứ nhất trong khi đó Ápganítxtan, Pakítxtan, Myanmar, và Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (DPRK) thuộc vào nhóm thứ hai.
Kết quả nghiên cứu từ những phát triển gần đây cho thấy cần phải chú ý đến những động thái của Trung Quốc trong việc hậu thuẫn cho các cỗ máy chiến tranh, nhất là việc cung cấp hậu cần. Christina Lin đề cập đến vùng "hiểm hoạ Trung Hoa", nơi mà những mạng lưới đường sắt hiện có và/hoặc sắp được xây dựng hứa hẹn giúp triển khai quân nhanh. Sự quan ngoại của bà đã nhận được sự chia sẻ của nhiều nhà phân tích, đáng chú ý có Konstantin Syroyezhkin đến từ Viện Nghiên cứu Chiến lược của Kazakhstan. Một số lần di chuyển quân của PLA gần đây, tiến hành thông qua mạng lưới đường sắt của Trung Quốc, được đánh giá như là một cuộc thử nghiệm vô thưởng vô phạt.
Đầu tháng 9/2010, Trung Quốc tiến hành di chuyển trên quy mô lớn một lực lượng của PLA, bao gồm hơn 1.000 sĩ quan lục quân và binh lính, một đơn vị làm nhiệm vụ đảm bảo hậu cần và một đơn vị tác chiến đường không đến Kazakhstan bằng đường tàu hoả. Hai tháng sau, vào tháng 11/2010, PLA lại di chuyển một lực lượng lớn từ địa điểm tổ chức Hội chợ World Expo ở Thượng Hải về các đơn vị ở Nam Kinh.
Những sự kiện này là phép thử đối với khả năng tung phóng lực lượng của Trung Quốc. Trung Quốc đã cho xây dựng các tuyến đường sắt đến Tây Tạng, và sắp tới nước này sẽ có tuyến đường sắt kết nối với Nepal. Trung Quốc đang có kế hoạch xây dựng tuyến đường sắt cao tốc đến Lào, Singapore, Campuchia, Việt Nam, Thái Lan và Myanmar. Iran, Afghanistan, và Tajikistan đã đồng ý hợp tác với Trung Quốc để xây dựng một tuyến đường sắt Trung Quốc-Iran chạy từ Tân Cương qua Kyrgyzstan, Tajikistan, Afghanistan, và điểm cuối là Iran. Như là một phần của Tuyến đường sắt xuyên Á do Liên Hợp quốc tài trợ, tuyến đường sắt này sẽ mở rộng theo hướng tây đến Irắc, Xêri, Thổ Nhĩ Kỳ, và kết nối với châu Âu. Phụ thuộc vào nhiều tham biến phụ thuộc và bổ sung, hình thái chiến lược tiến công của Trung Quốc do đó về mặt giả thiết có thể tác động đến tất cả những quốc gia này.
Các biện pháp đối phó với hình thái chiến lược tiến công của Trung Quốc phải đa chiều. Chúng có thể tạm gọi với cái tên quy tắc ngón tay cái. Trong khuôn khổ của ODT, các nước ngoại biên sẽ phải thiết lập một hàng rào hợp tác tập thể, đồng thời củng cố sức mạnh cứng và mềm của ODB để đối phó với hình thái chiến lược tiến công của Trung Quốc.