Bùi Tín, VOA: Chưa bao giờ bằng lúc này người Việt ta trong và ngoài nước cần tìm hiểu sâu sắc bản chất của chính quyền Đại Hán tại nước láng giềng phương Bắc trong mối quan hệ Việt-Trung từ ngàn xưa đến nay.
Bản chất lớn nhất của chính quyền Đại Hán là độc đoán bên trong và bành trướng xâm lược bên ngoài. Trong xâm lược bên ngoài, chúng lăm le nuốt chửng mọi nước láng giềng, tự nhận mình là trung tâm của thế giới, không giấu giếm ý đồ lâu dài là làm bá chủ thế giới bằng mọi cách. Chúng thôn tính một phần lớn Mông Cổ, toàn bộ Tân Cương, Tây Tạng, Mãn Châu, tiêu diệt quyền tự do, nền độc lập của các nước này, khẳng định láo xược cái tội cướp nước khác bằng lá cờ ô nhục một sao đỏ lớn nằm trên 4 ngôi sao nhỏ.
Sau khi thực hiện chiến tranh với Liên Xô mà chúng từng coi là người anh Cả trong phe Xã hội chủ nghĩa, với Ấn Độ là nước dân chủ lớn nhất ở châu Á, nhưng bị giáng trả và ngăn chặn, hiện nay Bắc Kinh mưu đồ bành trướng xuống phương Nam, ráo riết nô dịch hóa theo hình thức thuộc địa kiểu mới các nước Miến Điện, Việt Nam, Lào, Camuchia bằng những thủ đoạn từ lộ liễu đến tinh vi, từ hợp tác kinh tế, viện trợ kinh tế – tài chính – giáo dục – văn hóa, đẩy mạnh thương mại một chiều, làm đường xá, khai thác khoáng sản, năng lượng, cấy dân cư, đề xướng cư dân lân bang đi lại không hộ chiếu, cho đến thủ đoạn then chốt là mua chuộc nhóm lãnh đạo chính trị của các nước ấy bằng mọi cách thâm hiểm, hủ hóa bằng tiền, gái, rồi đe dọa khống chế bằng tình báo, tập trung vào nhóm lãnh đạo cao nhất, làm cho những người này tê liệt, mất khả năng phản ứng, há miệng mắc quai, vì đã trượt quá sâu vào trong quỹ đạo quy phục làm bộ hạ tay sai của chúng.
Trước tình hình hiện nay, trò 2 mặt trong đối phó với cuộc khủng hoảng biển Đông của Bộ Chính trị đảng CS Việt Nam – mà mặt chính là xoa dịu, nhún nhường – là rõ ràng. Nhóm lãnh đạo im thin thít, không biết ăn nói ra sao, kẹt cứng giữa 2 gọng kìm: nhân dân bất khuất và quan thầy nham hiểm.
Tình hình khốn khổ của nhóm lãnh đạo giữa cao trào chống xâm lược của toàn dân là hiển nhiên, làm kẻ thù thích chí.
Tình trạng bi đát này của nhóm lãnh đạo Việt Nam đã kéo dài từ 21 năm nay, khi cả hai chính quyền độc đảng Bắc Kinh và Hà Nội đều run sợ trước sự sụp đổ của bức tường Berlin và nhất là trước sự tan tành của Liên bang Xô viết và phe Xã hội chủ nghĩa, liền bắt tay nhau dù là mới trải qua cuộc «chiến tranh giữa 2 đồng chí thù địch» đầu năm 1979, để hòng cùng nhau trụ lại trước định mệnh đã an bài. Đó là bước ngoặt trong cuộc hội ngộ Việt – Trung ở Thành Đô – Tứ Xuyên cuối năm 1990, mà ông Nguyễn Cơ Thạch phải la hoảng lên là «một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu» để lập tức bị mất chức ngoại trưởng kiêm phó thủ tướng, bị gạt khỏi chức ủy viên Bộ Chính trị. Thực chất Thành Đô là cái bẫy cực kỳ thâm hiểm mang bản chất Đại Hán mà một loạt kẻ lãnh đạo mù quáng, mất gốc dân tộc Việt đã dại dột chui vào.
Từ đó đẻ ra bao chuyện nhẹ dạ, hớ hênh, tội lỗi với dân với nước. Hai hiệp định bất bình đẳng, mất đất, mất đảo, mất biển, mất tài nguyên, tạo điều kiện cho lao động Trung Quốc tràn vào khắp mọi vùng, độc chiếm các món thầu béo bở nhất, từ mỏ bauxite đến hàng loạt nhà máy điện, giành vị trí lao động phổ thông của người Việt mặc cho luật pháp ngăn cấm. Lực lượng lao động này lập làng Trung Quốc ở Tây Nguyên, làm đường chiến lược, khai thác hàng chục vạn hécta rừng dọc biên giới và đầu nguồn. Đồng thời hàng giá rẻ kém chất lượng, chứa chất độc tràn ngập đất nước ta, đồng Nhân dân tệ bắt đầu khuynh đảo thị trường tài chính ngầm. Tai họa cực kỳ nguy cấp hiển hiện, rình rập khắp nơi. Các nhà trí thức – kẻ sỹ dân tộc nhận rõ và báo động, tuổi trẻ xuống đường bền bỉ, nông dân, lao động, nhà kinh doanh chân chính đã lên tiếng, chỉ có lãnh đạo cao nhất là im hơi lặng tiếng, vẫn phải ôm chặt 16 chữ vàng – mà dân gian cho là «vàng khè, vàng giả».
Nhiều báo chí công khai – trừ 2 tờ Nhân dân và Quân đội Nhân dân – lên tiếng mạnh mẽ vạch mặt nham hiểm, tiểu nhân của nước lớn mà tư cách nhỏ, gây sự trong vùng biển của ta rồi lu loa đòi ta phải đi nơi khác, mưu đồ biến vùng biển của ta thành vùng tranh chấp, còn ngang ngựơc đòi Hoa Kỳ không được xía vào vùng biển của họ. Họ gây sự liên tiếp ở sâu trong vùng biển của ta rồi láo xược đòi đánh cho ta vỡ mặt, đòi dạy cho ta một bài học lớn hơn hồi 1979.
Không ai hiểu sâu sắc bản chất đê tiện, tham lam, nham hiểm kiểu thâm nho của lãnh đạo Đại Hán bằng 2 nhân vật trong nước đang dõng dạc cất tiếng với toàn dân là lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, từng làm đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh. và ông Dương Danh Dy. từng là Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc,
Tôi xin góp một dẫn chứng nhỏ nhưng sống động làm bằng. Hồi 1951 khi tôi phụ trách trường đạo tạo sỹ quan sơ cấp của Sư đoàn 304 đóng ở Thanh Hóa, một cố vấn Trung Quốc cấp Dinh (tiểu đoàn) được phái đến trường, gọi là đồng chí Triệu. Lúc nào anh ta cũng nói nhũn như con chi chi: «Mao chủ tịch phái chúng tôi đến giúp, nhưng chính là để học tập các đồng chí.
Chúng tôi không am hiểu kẻ thù, không am hiểu chiến trường, ý kiến còn thô thiển, chủ quan, mong các đồng chí tuỳ nghi lựa chọn và lượng thứ cho». Nhưng bất kỳ ý kiến lớn nhỏ nào của anh ta mà chưa kịp thi hành anh ta tâu ngay lên thượng cấp để xử lý rất găng. Sinh hoạt cũng vậy. Anh ta ăn riêng có thịt, có cá, có rượu bổ, lại có ngựa cưỡi, có 3 người phục vụ: 1 cần vụ, 1 giám mã, 1 bảo vệ, đi thao trường về là nằm ngửa có cần vụ bưng nước ấm đến để ngâm chân và xoa bóp, nhưng lại luôn hát: chúng ta là con em nhân dân trăm họ, luôn sống giản dị trong lòng dân, hết lòng phục vụ nhân dân, luôn nhường cơm xẻ áo cho dân …
Nói một đằng làm một nẻo là thế. Cả một nếp sống, một nền văn hóa giả dối như thế.
Do bàn chất Đại Hán xảo quyệt thâm nho như thế nên tất cả vấn đề hiện nay là liệu 14 vị lãnh đạo trên cao nhất nắm quyền cai trị đất nước này đã hiểu sâu, hiểu rõ bản chất bành trướng cao ngạo cực kỳ thâm độc Đại Hán hay chưa? và từ đó tỉnh ngộ trước khi đã quá muộn, khi sự uất hận chính đáng của toàn dân với tai họa bành trướng sẽ tất yếu bùng nổ xung thiên. Cần dũng cảm quyết đoán, gỡ từng mối, từng nút, từ toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, hải đảo quốc gia, từ khai thác tài nguyên biển, bảo vệ ngư dân ta, giải trừ tai họa bauxite, tai họa nhượng quyền khai thác rừng, ngăn chặn hàng phi pháp tràn qua biên giới, đến sáng suốt nắm thời cơ này xoay chuyển hẳn đường lối đối ngoại, tìm hàng loạt bạn đáng tin cậy để kết thân, và kịp thời đưa hẳn vấn đề ra trước Liên Hiệp Quốc, khi cần ra cả Tòa án quốc tế về biển..
Hãy nhớ trong Chiến tranh thế giới II Hoa Kỳ với nước Đức và Nhật Bản là những kẻ tử thù, thế mà nay kết liên minh bền chặt nhất. Từ xa xưa Pháp – Đức coi nhau là kẻ thù truyền kiếp, kẻ thù vĩnh cửu, vậy mà nay 2 nước Pháp – Đức là trục liên minh vững bền làm nòng cốt cho Liên hiệp châu Âu, nâng sức mạnh của mỗi dân tộc, mỗi nước lên tầm cao mới.
Thực hiện dân chủ trong nước một cách mạnh dạn, quả đoán, trong niềm tin ở nhân dân, thắt chặt liên minh mới về mọi mặt với tất cả các nước dân chủ trên thế giới, đó là con đường sáng duy nhất, là mệnh lệnh của tình thế, là lời kêu gọi của thời đại, là đòi hỏi cấp bách trong sáng của nhân dân, của dân tộc Việt Nam oai hùng, một dân tộc xứng đáng với cuộc sống khác, một cuộc sống thật sự độc lập, tự do, bình đẳng, công bằng và hạnh phúc.
Mong rằng 14 vị trên đỉnh cao lắng nghe thật rõ, thật thấu đáo những tiếng nói của thường dân, giữa những mưu đồ cực kỳ hung hãn bất nhân của thế lực xâm lược Đại Hán.