Thảo Giang - Doãn Hoàng
Đã gần nghìn ngày trôi qua, kể từ ngày người đàn bà Tày quê mình viết đơn cho các bác sỹ Bệnh viện Bạch Mai xin đưa chồng về để… chết. Nhưng, ngồi tại nhà mình, bà Hoàng Thị Bình, Chủ tịch Mặt trận tổ quốc tỉnh Cao Bằng vẫn sửng sốt và buồn rầu khi tình cờ cùng tôi nhắc lại câu chuyện hy hữu, có chút gì bi hài và cay đắng ấy. Bà đã về BV Bạch Mai thăm, tặng quà. Rồi, khoảng 400 triệu đồng đã được các nhà hảo tâm gửi về ngõ hầu cứu sống anh chàng người Tày bị ong bồ vẽ đốt, hôn mê mấy chục ngày, đã mười phần chết chỉ một phần sống kia. Nạn nhân đã được cứu nhờ phép nhiệm màu của tình nhân ái, nghĩa đồng bào.
Song, đó cũng là lúc một trang chuyện rầu lòng khác được mở ra.
Ong đốt làm Dưỡng phải nằm mê man bất tỉnh đúng 39 ngày, mê từ vạt núi đi chặt củi đầu xã, mê ra huyện lên tỉnh, bất tỉnh nhân sự đến tận BV Bạch Mai dưới Hà Nội. Nằm viện tròn 4 tháng! Dưỡng chỉ nhớ, khoảng 18h chiều một ngày cuối tháng 9 năm 2008, đi chặt củi cùng chúng bạn, vừa đụng dao vào bụi rậm, Dưỡng nghe tiếng u u, rồi các “viên đạn màu đen” (con ong bồ vẽ) đầy lông lá bay kín bầu trời. Nó đốt vào đầu, mu bàn tay, vào mặt anh chi chít. Theo bản năng người đi rừng, Dưỡng chỉ còn biết nhắm mắt lại để tránh ong độc đái vào mắt giết mù đôi mắt của anh. Dưỡng hôn mê từ bìa rừng, chúng bạn phải đẽo cáng khiêng Dưỡng về. Hôn mê sâu, suy thận, suy gan, loãng máu, rối loạn đông máu, lúc kịch phát còn bị trào máu vào phổi… tất cả các bác sỹ ở tuyến huyện, tuyến tỉnh đều lắc đầu bảo phải về Khoa Chống độc Bệnh viện Bạch Mai may ra còn 1% hy vọng sống. Ngày 1/10/2008, nạn nhân được nhập viện Khoa Chống độc, BV Bạch Mai, Hà Nội, khi mà khoảng 50 vết ong đốt đã hoại tử, lở loét.
Vừa vào nhập viện ở tầng 1, lên đến tầng 2, đã thấy thông báo nộp 5 triệu đồng. Vài ngày sau, Nông Thị Hồng, 37 tuổi, vợ Dưỡng được các nhân viên ngành y gọi lên, thông báo: đóng 20 triệu đồng tiền viện phí. Hồng rụng rời chân tay. Mạng người là vô giá, các bác sỹ cứu chồng mình thì mình phải giả tiền chứ có ai bóc lột mình đâu, Hồng hiểu thế. Nhưng, Hồng vẫn không hình dung được sao mà thuốc thang đắt đỏ thế - trong khi anh chồng vẫn với ống thở mê man, không khác gì cái tử thi. Vay mượn, lạy lục, bán chác đủ thứ, nộp tiền xong. “Vài ngày sau, lại chuẩn bị nộp 10 triệu, ối giời ơi, chồng em vẫn mê man anh ạ”, kể đến đây, Hồng khóc nức nở. Dưỡng gạt nước mắt chống nạng ra ngoài sân ngắm núi xóm Nà Cốc. Tôi an ủi an Hồng: “Thì thuốc thang đắt đỏ. Thời buổi này, con đường ngắn nhất để người ta có thể đi đến khánh kiệt, là đường đến Bệnh viện mà. Nhà mình nghèo gianh tre thế này, thấy 10 triệu là to, chứ…”. Hồng bảo, em đã đưa chồng về đến thủ đô Hà Nội, nhà em nghèo hết cỡ thế này, anh bảo, có ai lại muốn chồng “được” chết. Nhưng mà em không có một xu trong người, sau quá trình liên tục nộp đủ thứ tiền. Chị Th., bên tài chính của khoa, chị ấy bảo, mày không có tiền, chồng mày đang thở bằng ống thở, lại phải lọc máu liên tục vì bị ong độc đốt, lại truyền đủ thứ thuốc men, rút “ống” ra là chết ngay lập tức, “chết ngay tại chỗ” (từ ngữ trong nguyên văn). Ngoài tiền đã trả, vẫn còn nợ bệnh viện 35 triệu, mỗi ngày sắp tới lại cần nhiều triệu nữa để điều trị! Trời ơi, còn cái gì để bán, em cũng bán ngay để cứu chồng. Nhưng không có gì cả, em phải làm gái góa thôi, hai đứa con em thành mồ côi mất thôi.
Em khóc, nếu không có tiền thì phải chết, em ở hoàn cảnh này, chẳng biết còn con đường nào khác đâu. Hồng kể: “Lúc ấy em “bí” lắm, không biết làm thế nào nữa. Trăm sự nhờ các bác sỹ thôi. Nếu không nhờ được, em đành cho chồng về quê, lấy thuốc lá lẩu ở địa phương, sống thêm giờ nào hay giờ ấy, chứ biết làm sao? Chị Th. ấy bảo, nếu muốn về, về xin giấy của địa phương này, viết đơn đi này. Em viết mãi không xong, em trình bày hoàn cảnh, tên là gì, ở bản gì, hộ nghèo ra sao. Em hỏi chị Th, chị ơi viết thế nào nữa, chị bảo, thì viết xin cho chồng về để chết chứ còn thế nào nữa. Chị ấy lấy giấy bút cho em viết mà. Lúc ấy khóc nhiều lắm. Giờ em nhớ, đơn của em là: Đơn xin đưa chồng về để chết” (nguyên văn lá đơn đó hiện chúng tôi đang có, như sau: “… Lý do tôi làm đơn này xin cho chồng về để chết vì gia đình gặp hoàn cảnh thật sự khó khăn, chúng em không tiếp tục ở lại bệnh viện được nữa nên gia đình xin cho chồng về để chết…”) . “Viết xong em đặt lên bàn của chị Th. ấy. Em ra ngoài tìm cách liên lạc với xe cấp cứu của bệnh viện tỉnh Cao Bằng, bảo các bác ấy lúc nào tiện thể đưa bệnh nhân xuống thì nhớ mang theo cái bình ô xy như hôm đưa chồng em xuống Bạch Mai ấy. Em muốn chồng em sống thêm một tý, về đến nhà cho các con em được nhìn mặt bố lần cuối”. Em ra ngoài ngồi chờ, 8h, rồi 9h, rồi 10h, chưa thấy họ cho phép em mang chồng về, em lo lắm.
Chị Nông Thị Mai Sao, lãnh đạo Hội Nông dân huyện Thạch An, là người gắn bó với Hồng từ ngày mẹ Hồng chết, khi Hồng mới 3 tuổi đầu, ngồi nghe chuyện từ đầu, kể thêm: “Đêm ấy, thấy tiếng khóc rầm rĩ. Tôi cũng sang nhà đem toàn bộ quần áo, chăn, màn các thứ của Dưỡng ra giặt, giặt phơi trắng các bờ rào để chuẩn bị liệm xác Dưỡng. Để Dưỡng mang đi về cõi bên kia (theo phong tục người Tày). Bà con bắt đầu xẻ gỗ đóng quan tài cho Dưỡng, cả đêm bản làng không ngủ. Có người khóc rấm rứt ngồi chờ sáng. Hai đứa nghèo và ngoan lắm, các con nó xinh như búp bê sắp mồ côi cha”.
Gặp chúng tôi sau hơn 2 năm về lại bản Nà Cốc, Dưỡng vẫn lẩy bẩy, vẫn cầm nạng chống lui cui. Cả bản làng, cả đại gia đình, thật sự cảm ơn các bác sỹ, cảm ơn cả xã hội đã thấy người ta buộc phải buông xuôi sự sống vì đói nghèo mà không hề vô cảm. Và, Dưỡng vẫn không biết rằng, kể từ khi lá đơn “trần đời có một” của Hồng đến tay các nhà báo, một cuộc quyên góp từ nhiều tầng lớp, từ độc giả trong và ngoài nước đã diễn ra, và số tiền ủng hộ người viết đơn xin cho chồng được chết lên tới 400 triệu đồng. Với người nuôi vợ con bằng nghề kiếm củi tập tàng trong rừng núi gần như hoang hóa của vùng Thạch An như Dưỡng, số tiền đó lớn hơn cả ngọn núi trước nhà. Sự sống là thứ quan trọng nhất, Dưỡng không đòi hỏi gì hơn.
Nhưng vợ Dưỡng thì hơi băn khoăn. Trong lá đơn gửi chúng tôi, Hồng cảm ơn xã hội và các bác sỹ thật lòng. Người như Hồng có lẽ cả đời không nói dối ai bao giờ. Hồng viết bằng mực xanh, trên giấy học trò, chồng Hồng và bé Diễm (con gái Hồng và Dưỡng) cùng ký: “Chúng tôi là người nhà, khi nhà hảo tâm đưa tiền tận tay, chị Thảo cán bộ bệnh viện còn yêu cầu phải nộp lại”, chuyện 400 triệu ủng hộ chữa bệnh cho Dưỡng, Hồng cũng viết “chúng tôi không được ai thông báo”, “trước khi xuất viện, chúng tôi có được 10 triệu (BV đưa) về tiền xe đi lại và chăm sóc chồng”. Hết.
Thật lòng, nhóm nhà báo chúng tôi tiện công tác qua Thạch An, thăm lại người viết đơn cho chồng được chết, chỉ để tặng chút quà mọn. Bất ngờ nghe chuyện “cắc cớ”, tôi bấm máy di động, bật loa cho cả nhà Dưỡng nghe, đầu kia, một nữ nhà báo tận tâm viết bài, chụp ảnh, kêu gọi, trao tiền, đưa tin chi tiết về quá trình cả xã hội chung tay cứu Dưỡng đã vô cùng bất bình. Nhà báo này nói, đại ý: ôi, em đã không có số điện thoại, không làm sao liên lạc được với họ. Vụ việc 400 triệu ủng hộ Dưỡng chi tiêu ra sao, có lẽ là nỗi áy náy, và bức xúc nhất, ám ảnh nhất trong cả chục năm làm báo vừa qua của em. Họ quá nghèo, quá thật thà, chắc chắn bây giờ họ vẫn nhớ mặt và tên em. Vì em đã gặp họ quá nhiều, lo cho họ từng tí. Em nhớ, Dưỡng về bản, vẫn là người da bọc xương, bị liệt. Nhưng khi tiền về, thì họ lại không dùng hoàn toàn để phục vụ cho việc chữa bệnh, chăm sóc Dưỡng và gia đình. Em vô cùng bất bình.
Ngay lập tức, chúng tôi mở laptop, dùng thẻ kết nối internet 3G, gõ tên “Nông Đoàn Dưỡng” và từ khóa “ong đốt”, thì được hàng chục kết quả với các trang báo lớn, viết kỹ, lần lượt từ việc Dưỡng bị ong đốt, chụp ảnh lá đơn xin được chết, sự bế tắc, rồi 200 triệu, rồi lên tới 400 triệu ủng hộ bệnh nhân Dưỡng. Các con số trên cực kỳ rõ ràng, y tá Phạm Thị Thảo (người tiếp nhận tiền cho Dưỡng), rồi TS Phạm Duệ (Giám đốc Tủng tâm chống độc) phát biểu trên báo hẳn hoi, “bệnh nhân Dưỡng đã nhận được số tiền ủng hộ lên tới 400 triệu đồng” (trích nguyên văn từ một bài báo đã đăng, tác giả Lệ Hà). Và, trước khi đặt bút viết bài này, trao đổi với TS Duệ, chúng tôi cũng vẫn nhận được lời xác tín như trên. Ông Duệ bảo, số tiền còn thừa của 400 triệu đồng kia (sau khi chữa bệnh cho Dưỡng) đã được Trung tâm hỏi ý kiến một số nhà tài trợ rồi để lại trong quỹ nhằm điều trị bệnh nhân khác.
Một nhà báo tâm huyết trong cuộc vận động tiền cứu Nông Đoàn Dưỡng lại cho rằng, số tiền đó không phải được dùng vì mục đích như ông Duệ nói. Chị đã nhiều lần gặp riêng Nông Thị Hồng để hỏi về việc tiền có đến tay gia đình Hồng không. Chị Hồng có xác nhận với chúng tôi điều này. Nữ nhà báo cũng cảnh báo, nếu tôi hỏi sẽ bị ông Duệ nổi đóa vì “lý do đặc biệt”, quả thực, nghe lại băng ghi âm cuộc trao đổi của chúng tôi thì thấy ông Duệ rất “nặng lời”… Vậy là đã rõ, dù thế nào thì việc không thông báo, không minh bạch tiền 400 triệu đồng của nhà hảo tâm cho bệnh nhân Dưỡng vẫn là điều đáng “trách móc”, nếu không nói là một sự cẩu thả và... Bởi tiền đó, như cán bộ Trung tâm trả lời báo chí ngay thời điểm vừa có 400 triệu độc giả gửi, là: tiền gửi cho con người tận khổ Nông Đoàn Dưỡng chữa bệnh. Câu hỏi đặt ra là: giả sử số tiền thừa sau khi chữa bệnh cho Dưỡng mà không bị thắc mắc, “dư luận cấn cá” thì Trung tâm có sử dụng vào cái gọi là “quỹ” cho bệnh nhân khác như ông Duệ nói không? Thêm nữa: thời điểm Trung tâm quyết định xin ý kiến nhà hảo tâm (nếu điều này là có thật như ông Duệ nói) là khi nào? - trước hay là sau thời điểm có “dư luận”? Liệu có phải, ngay sau khi “toa” thuốc cuối cùng điều trị cho Dưỡng chấm dứt, người ta đã tổng kết tiền thừa và đem tiền đó vào ngay cái quỹ vì bệnh nhân khác không? Hay là việc đem tiền của Dưỡng vào cái quỹ kia chỉ là “một cách nói”, là một sự “chữa cháy” của những sự mờ ám nào đó?
Dù thế nào, nghi ngờ, thắc mắc và bức xúc của một số nhà báo, của gia đình bệnh nhân Dưỡng cũng là chính đáng. Tiền của ai người đó chi tiêu, tiêu tiền của người khác mà chưa xin phép, dù là đem xây đình chùa hay để cứu người đi nữa, vẫn là sai. Hy vọng chúng ta sẽ sớm có câu trả lời thỏa đáng.
Thảo Giang - Doãn Hoàng
Song, đó cũng là lúc một trang chuyện rầu lòng khác được mở ra.
“Y tá ở Bạch Mai xé giấy bảo em nếu muốn để chồng chết thì… viết đơn”
Bản Nà Cốc, xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng nằm hiu quạnh ven con đường thiên lý nối Lạng Sơn với Cao Bằng đang bị băm thành hang hốc bởi ùn ùn xe công-ten-nơ chở hàng từ mạn bể Hải Phòng lên biên giới. Đại gia đình Nông Đoàn Dưỡng đi bộ cả cây số từ bản ra đầu núi đứng chờ chúng tôi. Không hỏi khách là ai, đến với mình với mục đích gì, nghe nói có người lên chơi là bản Tày mến thương trải lòng đi đón. Dưỡng 36 tuổi, gầy nhom, bước đi liêu xiêu còn phải chống nạng, đầu vẫn trọc lốc, lỗ chỗ các vệt sẹo trắng, nói năng vẫn lẩy bẩy, có cái gì ngơ ngẩn thường gặp của kẻ từ cõi chết trở về.Ong đốt làm Dưỡng phải nằm mê man bất tỉnh đúng 39 ngày, mê từ vạt núi đi chặt củi đầu xã, mê ra huyện lên tỉnh, bất tỉnh nhân sự đến tận BV Bạch Mai dưới Hà Nội. Nằm viện tròn 4 tháng! Dưỡng chỉ nhớ, khoảng 18h chiều một ngày cuối tháng 9 năm 2008, đi chặt củi cùng chúng bạn, vừa đụng dao vào bụi rậm, Dưỡng nghe tiếng u u, rồi các “viên đạn màu đen” (con ong bồ vẽ) đầy lông lá bay kín bầu trời. Nó đốt vào đầu, mu bàn tay, vào mặt anh chi chít. Theo bản năng người đi rừng, Dưỡng chỉ còn biết nhắm mắt lại để tránh ong độc đái vào mắt giết mù đôi mắt của anh. Dưỡng hôn mê từ bìa rừng, chúng bạn phải đẽo cáng khiêng Dưỡng về. Hôn mê sâu, suy thận, suy gan, loãng máu, rối loạn đông máu, lúc kịch phát còn bị trào máu vào phổi… tất cả các bác sỹ ở tuyến huyện, tuyến tỉnh đều lắc đầu bảo phải về Khoa Chống độc Bệnh viện Bạch Mai may ra còn 1% hy vọng sống. Ngày 1/10/2008, nạn nhân được nhập viện Khoa Chống độc, BV Bạch Mai, Hà Nội, khi mà khoảng 50 vết ong đốt đã hoại tử, lở loét.
Vừa vào nhập viện ở tầng 1, lên đến tầng 2, đã thấy thông báo nộp 5 triệu đồng. Vài ngày sau, Nông Thị Hồng, 37 tuổi, vợ Dưỡng được các nhân viên ngành y gọi lên, thông báo: đóng 20 triệu đồng tiền viện phí. Hồng rụng rời chân tay. Mạng người là vô giá, các bác sỹ cứu chồng mình thì mình phải giả tiền chứ có ai bóc lột mình đâu, Hồng hiểu thế. Nhưng, Hồng vẫn không hình dung được sao mà thuốc thang đắt đỏ thế - trong khi anh chồng vẫn với ống thở mê man, không khác gì cái tử thi. Vay mượn, lạy lục, bán chác đủ thứ, nộp tiền xong. “Vài ngày sau, lại chuẩn bị nộp 10 triệu, ối giời ơi, chồng em vẫn mê man anh ạ”, kể đến đây, Hồng khóc nức nở. Dưỡng gạt nước mắt chống nạng ra ngoài sân ngắm núi xóm Nà Cốc. Tôi an ủi an Hồng: “Thì thuốc thang đắt đỏ. Thời buổi này, con đường ngắn nhất để người ta có thể đi đến khánh kiệt, là đường đến Bệnh viện mà. Nhà mình nghèo gianh tre thế này, thấy 10 triệu là to, chứ…”. Hồng bảo, em đã đưa chồng về đến thủ đô Hà Nội, nhà em nghèo hết cỡ thế này, anh bảo, có ai lại muốn chồng “được” chết. Nhưng mà em không có một xu trong người, sau quá trình liên tục nộp đủ thứ tiền. Chị Th., bên tài chính của khoa, chị ấy bảo, mày không có tiền, chồng mày đang thở bằng ống thở, lại phải lọc máu liên tục vì bị ong độc đốt, lại truyền đủ thứ thuốc men, rút “ống” ra là chết ngay lập tức, “chết ngay tại chỗ” (từ ngữ trong nguyên văn). Ngoài tiền đã trả, vẫn còn nợ bệnh viện 35 triệu, mỗi ngày sắp tới lại cần nhiều triệu nữa để điều trị! Trời ơi, còn cái gì để bán, em cũng bán ngay để cứu chồng. Nhưng không có gì cả, em phải làm gái góa thôi, hai đứa con em thành mồ côi mất thôi.
Em khóc, nếu không có tiền thì phải chết, em ở hoàn cảnh này, chẳng biết còn con đường nào khác đâu. Hồng kể: “Lúc ấy em “bí” lắm, không biết làm thế nào nữa. Trăm sự nhờ các bác sỹ thôi. Nếu không nhờ được, em đành cho chồng về quê, lấy thuốc lá lẩu ở địa phương, sống thêm giờ nào hay giờ ấy, chứ biết làm sao? Chị Th. ấy bảo, nếu muốn về, về xin giấy của địa phương này, viết đơn đi này. Em viết mãi không xong, em trình bày hoàn cảnh, tên là gì, ở bản gì, hộ nghèo ra sao. Em hỏi chị Th, chị ơi viết thế nào nữa, chị bảo, thì viết xin cho chồng về để chết chứ còn thế nào nữa. Chị ấy lấy giấy bút cho em viết mà. Lúc ấy khóc nhiều lắm. Giờ em nhớ, đơn của em là: Đơn xin đưa chồng về để chết” (nguyên văn lá đơn đó hiện chúng tôi đang có, như sau: “… Lý do tôi làm đơn này xin cho chồng về để chết vì gia đình gặp hoàn cảnh thật sự khó khăn, chúng em không tiếp tục ở lại bệnh viện được nữa nên gia đình xin cho chồng về để chết…”) . “Viết xong em đặt lên bàn của chị Th. ấy. Em ra ngoài tìm cách liên lạc với xe cấp cứu của bệnh viện tỉnh Cao Bằng, bảo các bác ấy lúc nào tiện thể đưa bệnh nhân xuống thì nhớ mang theo cái bình ô xy như hôm đưa chồng em xuống Bạch Mai ấy. Em muốn chồng em sống thêm một tý, về đến nhà cho các con em được nhìn mặt bố lần cuối”. Em ra ngoài ngồi chờ, 8h, rồi 9h, rồi 10h, chưa thấy họ cho phép em mang chồng về, em lo lắm.
Chị Nông Thị Mai Sao, lãnh đạo Hội Nông dân huyện Thạch An, là người gắn bó với Hồng từ ngày mẹ Hồng chết, khi Hồng mới 3 tuổi đầu, ngồi nghe chuyện từ đầu, kể thêm: “Đêm ấy, thấy tiếng khóc rầm rĩ. Tôi cũng sang nhà đem toàn bộ quần áo, chăn, màn các thứ của Dưỡng ra giặt, giặt phơi trắng các bờ rào để chuẩn bị liệm xác Dưỡng. Để Dưỡng mang đi về cõi bên kia (theo phong tục người Tày). Bà con bắt đầu xẻ gỗ đóng quan tài cho Dưỡng, cả đêm bản làng không ngủ. Có người khóc rấm rứt ngồi chờ sáng. Hai đứa nghèo và ngoan lắm, các con nó xinh như búp bê sắp mồ côi cha”.
Số tiền 400 triệu của độc giả được chi tiêu ra sao?
Sau chừng 100 ngày điều trị, Dưỡng đã trở về từ cõi chết. Tuy nhiên, vì hôn mê sâu quá lâu, lại thêm sự tác oai tác quái của nọc độc ong bồ vẽ, nên Dưỡng đối mặt với chứng teo cơ. Lúc về, Dưỡng bảo, mình như đứa trẻ lấy bấy vừa sinh ra, nằm đâu nằm đấy, mắt trắng dã, đầu trọc lốc, thỉnh thoảng gào thét mê sảng.Gặp chúng tôi sau hơn 2 năm về lại bản Nà Cốc, Dưỡng vẫn lẩy bẩy, vẫn cầm nạng chống lui cui. Cả bản làng, cả đại gia đình, thật sự cảm ơn các bác sỹ, cảm ơn cả xã hội đã thấy người ta buộc phải buông xuôi sự sống vì đói nghèo mà không hề vô cảm. Và, Dưỡng vẫn không biết rằng, kể từ khi lá đơn “trần đời có một” của Hồng đến tay các nhà báo, một cuộc quyên góp từ nhiều tầng lớp, từ độc giả trong và ngoài nước đã diễn ra, và số tiền ủng hộ người viết đơn xin cho chồng được chết lên tới 400 triệu đồng. Với người nuôi vợ con bằng nghề kiếm củi tập tàng trong rừng núi gần như hoang hóa của vùng Thạch An như Dưỡng, số tiền đó lớn hơn cả ngọn núi trước nhà. Sự sống là thứ quan trọng nhất, Dưỡng không đòi hỏi gì hơn.
Nhưng vợ Dưỡng thì hơi băn khoăn. Trong lá đơn gửi chúng tôi, Hồng cảm ơn xã hội và các bác sỹ thật lòng. Người như Hồng có lẽ cả đời không nói dối ai bao giờ. Hồng viết bằng mực xanh, trên giấy học trò, chồng Hồng và bé Diễm (con gái Hồng và Dưỡng) cùng ký: “Chúng tôi là người nhà, khi nhà hảo tâm đưa tiền tận tay, chị Thảo cán bộ bệnh viện còn yêu cầu phải nộp lại”, chuyện 400 triệu ủng hộ chữa bệnh cho Dưỡng, Hồng cũng viết “chúng tôi không được ai thông báo”, “trước khi xuất viện, chúng tôi có được 10 triệu (BV đưa) về tiền xe đi lại và chăm sóc chồng”. Hết.
Thật lòng, nhóm nhà báo chúng tôi tiện công tác qua Thạch An, thăm lại người viết đơn cho chồng được chết, chỉ để tặng chút quà mọn. Bất ngờ nghe chuyện “cắc cớ”, tôi bấm máy di động, bật loa cho cả nhà Dưỡng nghe, đầu kia, một nữ nhà báo tận tâm viết bài, chụp ảnh, kêu gọi, trao tiền, đưa tin chi tiết về quá trình cả xã hội chung tay cứu Dưỡng đã vô cùng bất bình. Nhà báo này nói, đại ý: ôi, em đã không có số điện thoại, không làm sao liên lạc được với họ. Vụ việc 400 triệu ủng hộ Dưỡng chi tiêu ra sao, có lẽ là nỗi áy náy, và bức xúc nhất, ám ảnh nhất trong cả chục năm làm báo vừa qua của em. Họ quá nghèo, quá thật thà, chắc chắn bây giờ họ vẫn nhớ mặt và tên em. Vì em đã gặp họ quá nhiều, lo cho họ từng tí. Em nhớ, Dưỡng về bản, vẫn là người da bọc xương, bị liệt. Nhưng khi tiền về, thì họ lại không dùng hoàn toàn để phục vụ cho việc chữa bệnh, chăm sóc Dưỡng và gia đình. Em vô cùng bất bình.
Ngay lập tức, chúng tôi mở laptop, dùng thẻ kết nối internet 3G, gõ tên “Nông Đoàn Dưỡng” và từ khóa “ong đốt”, thì được hàng chục kết quả với các trang báo lớn, viết kỹ, lần lượt từ việc Dưỡng bị ong đốt, chụp ảnh lá đơn xin được chết, sự bế tắc, rồi 200 triệu, rồi lên tới 400 triệu ủng hộ bệnh nhân Dưỡng. Các con số trên cực kỳ rõ ràng, y tá Phạm Thị Thảo (người tiếp nhận tiền cho Dưỡng), rồi TS Phạm Duệ (Giám đốc Tủng tâm chống độc) phát biểu trên báo hẳn hoi, “bệnh nhân Dưỡng đã nhận được số tiền ủng hộ lên tới 400 triệu đồng” (trích nguyên văn từ một bài báo đã đăng, tác giả Lệ Hà). Và, trước khi đặt bút viết bài này, trao đổi với TS Duệ, chúng tôi cũng vẫn nhận được lời xác tín như trên. Ông Duệ bảo, số tiền còn thừa của 400 triệu đồng kia (sau khi chữa bệnh cho Dưỡng) đã được Trung tâm hỏi ý kiến một số nhà tài trợ rồi để lại trong quỹ nhằm điều trị bệnh nhân khác.
Một nhà báo tâm huyết trong cuộc vận động tiền cứu Nông Đoàn Dưỡng lại cho rằng, số tiền đó không phải được dùng vì mục đích như ông Duệ nói. Chị đã nhiều lần gặp riêng Nông Thị Hồng để hỏi về việc tiền có đến tay gia đình Hồng không. Chị Hồng có xác nhận với chúng tôi điều này. Nữ nhà báo cũng cảnh báo, nếu tôi hỏi sẽ bị ông Duệ nổi đóa vì “lý do đặc biệt”, quả thực, nghe lại băng ghi âm cuộc trao đổi của chúng tôi thì thấy ông Duệ rất “nặng lời”… Vậy là đã rõ, dù thế nào thì việc không thông báo, không minh bạch tiền 400 triệu đồng của nhà hảo tâm cho bệnh nhân Dưỡng vẫn là điều đáng “trách móc”, nếu không nói là một sự cẩu thả và... Bởi tiền đó, như cán bộ Trung tâm trả lời báo chí ngay thời điểm vừa có 400 triệu độc giả gửi, là: tiền gửi cho con người tận khổ Nông Đoàn Dưỡng chữa bệnh. Câu hỏi đặt ra là: giả sử số tiền thừa sau khi chữa bệnh cho Dưỡng mà không bị thắc mắc, “dư luận cấn cá” thì Trung tâm có sử dụng vào cái gọi là “quỹ” cho bệnh nhân khác như ông Duệ nói không? Thêm nữa: thời điểm Trung tâm quyết định xin ý kiến nhà hảo tâm (nếu điều này là có thật như ông Duệ nói) là khi nào? - trước hay là sau thời điểm có “dư luận”? Liệu có phải, ngay sau khi “toa” thuốc cuối cùng điều trị cho Dưỡng chấm dứt, người ta đã tổng kết tiền thừa và đem tiền đó vào ngay cái quỹ vì bệnh nhân khác không? Hay là việc đem tiền của Dưỡng vào cái quỹ kia chỉ là “một cách nói”, là một sự “chữa cháy” của những sự mờ ám nào đó?
Dù thế nào, nghi ngờ, thắc mắc và bức xúc của một số nhà báo, của gia đình bệnh nhân Dưỡng cũng là chính đáng. Tiền của ai người đó chi tiêu, tiêu tiền của người khác mà chưa xin phép, dù là đem xây đình chùa hay để cứu người đi nữa, vẫn là sai. Hy vọng chúng ta sẽ sớm có câu trả lời thỏa đáng.
Thảo Giang - Doãn Hoàng