Nguyễn Trung
Trong lịch sử ngoại giao
Việt Nam kể từ sau khi đất nước đã hoàn thành sự nghiệp độc lập
thống nhất ngày 30-04-1975 cho đến hôm nay, sự kiện hội nghị bí mật
Thành Đô tháng 9-1990 giữa hai đoàn đại biểu cấp cao hai nước Việt –
Trung để bình thường hóa quan hệ là một thất bại nhục nhã của nước
ta, bẻ ghi con đường phát triển của nước ta dẫn đến tình hình đất
nước như hôm nay: Một lần nữa Trung Quốc lại trở thành mối uy hiếp
trực tiếp và nguy hiểm nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và con đường phát triển của nước ta.
Sai lầm nghiêm trọng thứ
nhất là tư duy ý thức hệ đã mù quáng không nhìn ra sự sụp đổ của các
nước Liên Xô Đông Âu cũ tạo ra một cục diện quốc tế mới cho phép
nước ta thực hiện triệt để độc lập tự chủ, từ đây có thể đi cùng với
cả trào lưu tiến bộ thế giới để bảo vệ và phát triển đất nước mình,
không cần phải gắn nước ta vào phe nào hay nước lớn nào. Cơ hội này
đã bị vứt bỏ, chẳng những thế mà còn bị xem là nguy cơ lớn nhất đối
với đất nước – thực ra là nguy cơ lớn nhất đối với chế độ chính
trị.
Sai lầm nghiêm trọng thứ
hai là lẫn lộn hai thứ làm một giữa bình thường hóa quan hệ quốc gia
– quốc gia và liên minh ý thức hệ. Từ đó có ảo tưởng liên minh ý
thức hệ có thể giải quyết và vượt qua được những mâu thuẫn hay xung
đột lợi ích quốc gia, là cách tốt nhất để bảo vệ quốc gia và chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Tư duy như vậy, trên thực tế phía ta đã chấp
nhận bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trên thế yếu và gần như
với bất cứ giá nào.
Bình thường hóa quan hệ
Việt Trung kể từ Thành Đô 9-1990, Việt Nam được hưởng một thời kỳ
hòa hoãn nhất định với Trung Quốc, song đó là thời kỳ hòa hoãn trên
thế yếu và có nhiều sai lầm nghiêm trọng về ý thức hệ. Thực tế diễn
ra trong suốt thời gian này cho đến nay là phía Việt Nam đã làm tất
cả có thể để hòa hiếu, nhân nhượng, giữ gìn đại cục, với cái đích
trung tâm là gìn giữ mối quan hệ chiến lược số một với Trung Quốc.
Nhưng toàn bộ thời gian này phía Trung Quốc lại triệt để khai thác
mối quan hệ hữu nghị như thế cho việc phát huy tối đa sự can
thiệp của quyền lực mềm vào toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội của Việt Nam, gây ra không ít khó khăn cho Việt Nam trên
lĩnh vực đối ngoại. Đặc biệt là Trung Quốc đã xuất khẩu ngoạn mục “nguy
cơ diễn biến hòa bình” vào Việt Nam, để chính Trung Quốc có
điều kiện tốt nhất tác động, ảnh hưởng và diễn biến Việt Nam về mọi
mặt.
Nhìn lại hơn 20 năm qua,
điểm lại toàn bộ những việc trong quan hệ hai nước đã làm được, từ
đàm phán biên giới trên bộ và dưới biển, phát triển quan hệ kinh tế,
việc Trung Quốc trúng thầu hàng trăm công trình kinh tế quốc gia
quan trọng của Việt Nam, thuê đất, thuê rừng, bô-ít Tây Nguyên,
ti-tan ven biển miền Trung, những hoạt động tăng cường quan hệ
thực ra là nhằm tăng cường chi phối nhân sự nước ta, những hoạt động
tăng cường giao lưu.., tất cả đều chịu sự chi phối sâu sắc của quyền
lực mềm Trung Quốc.
Những sai lầm, yếu kém chủ
quan của ta, do chính ta tự gây nên, cần phải được nhìn nhận khách
quan và phê phán nghiêm khắc, không thể đổ thừa cho bất kỳ ai bên
ngoài.
Dù khẳng định dứt khoát như thế, vẫn
phải đánh giá nghiêm khắc: Tổng hợp tình hình hơn 20 năm qua, thực
tế đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát triển, thì Việt
Nam càng lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị,
bị uy hiếp nhiều hơn về đối ngoại và quốc phòng. Thực tế này, cùng
với ảnh hưởng chính trị nói chung của Trung Quốc vào đối nội của
Việt Nam một mặt đang kìm hãm nghiêm trọng toàn bộ sự phát triển
của Việt Nam nói chung, mặt khác gây ly tán đến mức nguy hiểm
giữa nhân dân và lãnh đạo đất nước, khiến cho trấn áp và mất dân chủ
trong đối nội phải gia tăng, đồng thời thực tế này cũng khuyến khích
tham nhũng tiêu cực phát triển. Những vụ trấn áp biểu tình vừa qua
chống yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông nói lên nhiều điều và
càng đổ dầu thêm vào lửa bức xúc trong nhân dân.
Hiện nay, đất nước có rất nhiều yếu
kém bên trong, lệ thuộc và hèn yếu về đối ngoại, nguyên nhân của
thực trạng này – ngoài cac lẫm lỗi chủ quan của ta – có nguyên nhân
chi phối rất nghiêm trọng của ảnh hưởng Trung Quốc.
Ngày nay, lợi ích quốc gia đòi hỏi
phải lọai bỏ xu thế đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát
triển thì Việt Nam càng lệ thuộc vào Trung Quốc và tương lai phát
triển của Việt Nam càng bị chặn đứng. Ngày nay quốc gia đang đứng
trước nguy cơ Trung Quốc tìm cách tiếp tục lấn chiếm biển đảo của
đất nước trên Biển Đông. Sau 37 năm độc lập thống nhất, đất nước
đang lâm nguy.
Những yếu kém của ta trước đây đã
dẫn đến Thành Đô 1990. Không loại trừ nguy cơ những yếu kém hiện nay
của nước ta có thể tái lập một Thành Đô 1990 đời mới, với hệ quả là
vứt bỏ cả thế giới đang đứng về phía chính nghĩa của nước ta, để
quay lại hòa hiếu với Trung Quốc và để đẩy tiếp cả đất
nước xuống bùn đen!
Cả nước phải đồng lòng nhất trí loại
bỏ nguy cơ mới này. Muốn có được quan hệ hữu nghị thực sự, hợp tác
bình đẳng cùng có lợi giữa Việt Nam – Trung Quốc, càng nhất thiết
phải loại bỏ nguy cơ Thành Đô 1990 đời mới!
Để mỗi chúng ta có những căn cứ các
đáng về mối lo nguy cơ mới, trong phần phụ lục kèm theo bài này, xin
trân trọng giới thiệu với bạn đọc một số trích dẫn trong tài liệu
nghiên cứu của anh Dương Danh Dy về Hội nghị Thành Đô 9-1990.
Phụ
lục
Một số ý trích dẫn từ tài liệu
nghiên cứu
Hội nghị Thành Đô,
tháng 9 năm 1990
Dương Danh Dy, Hà
Nội, tháng 10 -2011
|
“…Ngoài những nhân nhượng “vô nguyên
tắc” về CPC như đã trình bày trên, phía Việt Nam đã không hề(hay
không dám) đề cập tới nguyên nhân tạo ra bất đồng trong quan hệ Việt
Trung trong hơn 10 năm qua nhất là cuộc chiến tranh biên giới tháng
2 năm 1979 do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình, chủ động gây ra.. Phía
Việt Nam đã hoàn toàn cho qua vấn đề sau khi nghe Giang Trạch Dân
nói trong diễn văn: quan hệ hai nước từ nay “hãy gác lại quá khứ,
hướng tới tương lai”…
…
…
Chúng ta không đòi Trung Quốc phải
bồi thưòng chiến tranh (trong khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến
tranh là điều kiện tiên quyết để bình thưòng hoá quan hệ hai nuớc)
nhưng tại sao trong đàm phán bí mật lại không dám nói dù chỉ là một
lời với Trung Quốc về cuộc chiến tranh tàn ác đó và buộc họ chí ít
phải nói ra câu “lấy làm tiếc” về hành động phi nghĩa của mình?
Nhượng bộ “vô nguyên tắc” này của Việt Nam đã làm cho Trung Quốc
dưòng như giành được “vị thế chính nghĩa” trước dư luận quốc tế và
nhất là trong đông đảo nhân dân Trung Quốc dù họ mang hơn 60 vạn
quân chính qui xâm lược, giết hại nhiều đồng bào ta, tàn phá nhiều
cơ sở vật chất của ta tại vùng 6 tỉnh biên giới Việt Nam. Làm cho
một bộ phận ngưòi trên thế giới cho rằng những vu cáo bịa đặt của
Trung Quốc: “Việt Nam xua đuổi nguời Hoa”, “Việt Nam xâm
lược Cămpuchia”… là đúng, việc thế giới “lên án, bao vây cấm vận
Việt Nam” là cần thiết, việc Trung Quốc “cho Việt Nam một bài học”
là phải đạo v.v.… trong khi chính chúng ta mới là ngườì có công lớn
trong việc đánh tan bọn Khơme đỏ, cứu nhân dân Cămpuchia khỏi nạn
diệt chủng. Tóm lại là đã làm cho khá nhiều người trong thời gian
khá dài hiểu lầm, ác cảm với Việt Nam.
…
…
…Cho tới khi đặt bút viết những dòng
này mặc dù đã mất nhiều công sức tìm hiểu, người viết vẫn chưa
biết ai là người đề xuất chủ trương cấm không được nói
lại chuyện cũ với Trung Quốc, khiến cho trong hơn 20 năm
qua, trên các phương tiện truyền thông của Việt Nam không hề có một
tin tức nào động chạm tới Trung Quốc (ngay cả tên tuổi, nghĩa trang
của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh yêu nước thần thánh
trên cũng bị cố tình lảng tránh không dám công khai nói tới, thậm
chí bị lãng quên).
…
…
…Cần phải nói ra đây một sự thực là
trong khi đó, báo, mạng chính thống của Trung Quốc vẫn ra sức tung
hoành, không hề bị một sự cấm đoán, hạn chế nào, ngày ngày tìm hết
cách để “bôi xấu, xuyên tạc” Việt Nam về mọi mặt, đến nỗi phần lớn
ngưòi dân Trung Quốc bình thường khi được hỏi về Việt Nam cũng thốt
lên, Việt Nam là “kẻ vô ơn bội nghĩa, là kẻ ăn cháo đá bát..”. Theo
tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc điều tra công
khai, đã có tới “80% dân mạng Trung Quốc (tức khoảng 300 triệu
ngưòi-chủ yếu là thanh niên và người có học) tán thành dùng biện
pháp vũ lực với Việt Nam tại Biển Đông” Cảm tình, ấn tưọng tốt đẹp
của đa số nhân dân Trung Quốc về một nước Việt Nam anh dũng trong
chiến đấu, cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung Quốc trước
đây dường như không còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết bao giờ
mới xoá bỏ được…
…
…
…Chấp nhận yêu sách trắng trợn của
phía Trung Quốc “gạt bỏ mọi chức vụ trong và ngoài đảng đồng chí
Nguyễn Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch HĐBT kiêm Bộ
trưởng Ngoại giao Việt Nam”, rồi lợi dụng mọi cơ hội để đến đại hội
VII ĐCSVN chính thức làm được việc đó khi đồng chí là một trong số
rất ít người lãnh đạo có tư duy sáng tạo, am hiểu tình hình quốc tế,
có sức khoẻ dồi dào, có uy tín quốc tế, nhất là đối với các nước
phương tây là một việc làm thể hiện sự yếu kém về bản lĩnh và sự tha
hoá về tình nghĩa cộng sản, là một việc làm dại dột “vác đá tự ghè
chân mình”…
…
…
…Có thể có ngưòi không đồng ý nhận
định này, nhưng người viết bài này luôn cho rằng Nguyễn Cơ Thạch là
số ngưòi hiếm có trong hàng ngũ lãnh đạo đảng ta lúc đó, ông am
hiểu sâu sắc tình hình quốc tế, có quan hệ tương đối tốt với một số
chính khách phương tây và đặc biệt là người sớm thấy rõ âm mưu ý đồ
đen tối của Trung Quốc đối với Việt Nam, đang tích cực vạch trần và
ra sức chống lại mọi ý đồ bành trướng bá quyền của họ khiến ban lãnh
đạo Bắc Kinh thấy rằng nếu không cương quyết ép ban lãnh đạo Việt
Nam loại bỏ Nguyễn Cơ Thạch thì Việt Nam sẽ “sớm thoát khỏi vòng tay
của Trung Quốc”, sẽ nhanh chóng có “vai trò quan trọng trong khu vực
và thế giới”, điều mà bất kỳ ban lãnh đạo Trung Quốc thế hệ nào cũng
đều không bao giờ muốn. Có thể nói mà không sợ quá mức rằng, nếu
Nguyễn Cơ Thạch còn trong ban lãnh đạo cấp cao Đảng ta một nhiệm kỳ
nữa thì việc bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ và việc Việt Nam gia
nhập Asean chắc chắn không phải mãi đến năm 1995 mới thực hiện, chậm
hơn việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc tới gần 5 năm….
…
…
…Ban lãnh đạo Bắc Kinh các thế hệ,
lo sợ ảnh hưỏng của Nguyễn Cơ Thạch tới mức, mặc dù ông buộc phải
nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn hai mươi năm sau ngày bình thưòng
hoá quan hệ Việt Trung, tại Đại hội lần thứ XI ĐCSVN tháng 1 năm
2011 họ còn không muốn để con trai ông làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Việt Nam (lời người lãnh đạo đảng ta lúc đó nói, tôi được nguyên đại
sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh trực tiếp cho biết)
Chỉ một ví dụ cụ thể này là đủ nói
rõ vấn đề
…
…
…Không thể dùng các từ ngữ thông
thưòng để đánh giá các hậu quả trên mà phải dùng từ “cái giá phải
trả bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản chất của vấn đề. “Hội
nghị Thành Đô” đã, đang và sẽ còn mang lại cho đất nước chúng những
hậu quả “to lớn”, “cay đắng” , “nhục nhã”…! Nếu những người có trách
nhiệm, không dám công khai toàn bộ tư liệu về hội nghị này và nghiêm
chỉnh đánh giá lại “kết quả”
…Vì vậy một vấn đề cũng quan trọng
không kém mà ngưòi viết xin mạnh dạn khởi đầu trước: từ những cái
giá phải trả đó chúng ta cần rút ra những bài học gì? Cần ghi nhớ
những bài học nào?
(1) Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt
của Đảng ta lúc đó hầu như không nắm được những thay đổi, những diễn
biến lớn trên trường quốc tế, nhất là về các nước xhcn Đông Âu, tình
hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình đối thủ trực tiếp của
mình lúc đó là Trung Quốc. Từ đó đã có những nhận định rất sai
lầm để rồi đưa ra những quyết định rất sai lầm.
Thắng lợi của Công đoàn Đoàn kết tại
Ba Lan, sự kiện “bức tường Berlin” bị nhân dân Đức xoá bỏ, việc
Yelsin giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại Cộng hoà liên bang
Nga, Goovachov từ bỏ chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản… đã không làm
cho một số ngưòi trong ban lãnh đạo chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã
hội đã không còn được nhân dân ở chính ngay những nước đó ưa thích,
theo đuổi, sự sụp đổ của họ là lẽ tất nhiên. Trong tình hình như thế
mà lại chủ trương “bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc để bảo vệ
chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc”, ”Mỹ và phương tây muốn cơ hội này
để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản
trên toàn thế giới. Rõ ràng là nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm.
Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc” (Hồi ký Trần
Quang Cơ)
Không thấy hết những khó khăn trong
ngoài nước của Trung Quốc lúc đó. Trong nước họ vừa xẩy ra “sự kiện
Thiên An Môn”, Triệu Tử Dương bị cách chức Tổng Bí thư, nội bộ lãnh
đạo cấp cao bất đồng sâu sắc, một bộ phận nhân dân bất mãn với ĐCSTQ
... Do đàn áp đẫm máu học sinh sinh viên, Trung Quốc bị các nước
phương tây chủ yếu cấm vận về chính trị, kinh tế, quân sự (có hạng
mục như xuất khẩu kỹ thuật cao trong quân sự đến nay vẫn chưa huỷ
bỏ). Họ ở vào thế không có lợi nhiều mặt khi bình thường hoá quan hệ
với ta, nhưng do mấy nhà lãnh đạo chúng ta lúc đó đánh giá không
đúng tình hình nên không những không sử dụng được lợi thế của mình,
mà còn bị Trung Quốc “dắt mũi” kéo theo, thiệt đơn thiệt kép trong
xử lý quan hệ cũ và trong giai đoạn bình thường quan hệ mới, cho tới
tận bây giờ và cả trong tương lai nữa.
(2) Bằng những thoả thuận tại Hội
nghị Thành Đô, mấy nhà lãnh đạo chủ yếu của Đảng ta lúc đó đã tự
đánh mất bản lĩnh “kiên cường,
bất khuất, không sợ địch” mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã nêu cao,
để sẵn sàng nhận sai về
phần mình trước “kẻ thù”, tuỳ tiện đổ lỗi cho ngưòi tiền nhiệm.
Người viết bài này không hiểu vì sao, người đại diện cho Đảng ta,
một nhân vật có tinh thần sáng tạo lớn với ý chí kiên cường đã tích
cực phát triển đường lối “cải cách và đổi mới” và chỉ đạo toàn Đảng
toàn dân thu được những thành tích to lớn rất quan trọng bước đầu,
thế nhưng trước đối thủ Trung Quốc hình như chỉ còn là chiếc bóng,
mất hết cảnh giác cách mạng gật đầu tin tưởng và làm theo mọi đề
xuất mang đầy chất lừa bịp “vì chủ nghĩa xã hội” “vì đại cục”… của
Trung Quốc, thậm chí chấp nhận để họ can thiệp vào công việc nhân sự
cấp cao của đảng ta.
Bài học này, cần được phân tích sâu
sắc trong toàn Đảng, toàn dân, một mặt để thấy rõ sai lầm quá khứ,
một mặt để ngăn chặn, phá tan những âm mưu, mánh khoé mới của ngưòi
“láng giềng 4 tốt” của “những đồng chí” luôn rêu rao “16 chữ vàng”
đang không ngừng vận dụng những “thành quả cũ” vào trong quan hệ với
Việt Nam chúng ta hiện nay và trong tưong lai….
…
…”
Hết
Võng Thị, Hà Nội, ngày 11
tháng 8 năm 2012