Trần Minh Khôi
Phần lớn những người Việt Nam hiện đại viết sử Việt Nam không ý thức được rằng họ viết và tư duy trong không gian của một ý thức hệ dân tộc (national ideology). Cái ý thức hệ dân tộc chi phối sinh hoạt học thuật và tư tưởng của trí thức Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua là một thứ ý thức hệ dân tộc thống nhất. Ý thức hệ này cho rằng có một “dân tộc Việt” nào đó, nhất quán, đã tồn tại từ xưa, bắt nguồn đâu đó từ Hùng Vương hay xa hơn nữa từ Lộc Tục, tùy theo bạn nói chuyện với ai. Nó mang nặng màu sắc dân tộc lớn, một sản phẩm của văn hóa Hán, cho rằng nó có sứ mệnh chinh phục những “dân tộc” nhỏ hơn. Ngay cả khi nó nhìn nhận sự đóng góp về văn hóa của các “dân tộc” nhỏ vào sự tồn tại của chính nó thì nó cũng ngạo mạn cho rằng đó là định mệnh của lịch sử. Trong tiến trình hình thành nhà nước tập quyền của nó, nó đẩy các “dân tộc” nhỏ đến bờ vực của diệt vong.
Cuộc đôi co giữa Hồ Trung Tú và Văn Món, liên quan đến một câu trong cuốn sách “Có 500 năm như thế” của tác giả Hồ Trung Tú, một lần nữa chứng minh rằng người ta nhìn về quá khứ bằng chính ngọn đuốc soi sáng của tương lai. Một người chỉ có thể nhìn rõ về quá khứ trong chừng mực mà ánh sáng soi rọi từ những ý niệm của họ về tương lai cho phép. Chỉ có những người chia sẻ một cái nhìn chung về tương lai mới có thể có sự đồng điệu trong cố gắng khám phá, và hòa giải, quá khứ.
Văn Món, trong hai bài bình luận của mình, trên website nguoicham.com, vặn vẹo câu viết của tác giả Hồ Trung Tú trong cuốn sách của anh, cho rằng nó “lạc lõng” và “tráo trở”. Trích, “Tác giả đã ngang nhiên phủ nhận giữa ban ngày ban mặt cả một Di sản đền tháp Mỹ Sơn – một nền văn minh Champa may mắn ẩn mình trong rừng sâu nên vô tình còn sót lại để con cháu Champa ngày nay có một chút tự hào với bè bạn, giao lưu với các dân tộc anh em và đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới vào 12/2009. Thế mà tác giả cho rằng Mỹ Sơn không phải di sản của vương quốc Champa mà đó chính là của người Việt.”
Chưa hết, trong bài tiếp theo, Văn Món kết tội Inrasara, người viết lời giới thiệu cuốn sách này, “dùng phép ảo thuật để biện hộ cho cái sai” không thể cứu vãn nổi của Hồ Trung Tú.
Đến lượt mình, Hồ Trung Tú cáo buộc Văn Món “rơi vào dân tộc chủ nghĩa”.
Hồ Trung Tú đã viết gì mà gây tranh cãi lớn tiếng với nhau như thế?
Anh viết:
“Vậy hà cớ gì chúng ta không thể nói một câu thật to rằng Mỹ Sơn chính là di sản của tổ tiên ta để lại, chứ không phải là vương quốc Chămpa đã bị diệt vong? Đó là di sản văn hoá của người Việt chứ không phải của một nền văn minh bị biến mất như các tờ rơi du lịch giới thiệu! Nó bình đẳng với chùa Một Cột, Cổ loa hay bất cứ thứ gì gây nên sự tự hào trong tâm hồn mỗi người dân Việt”
Cuộc cãi cọ có vẽ như là một cuộc tranh giành di sản thường thấy. Nhưng vấn đề ở đây không đơn giản như thế. Từ trong cách viết của Hồ Trung Tú và cách đọc của Văn Món phản ảnh hai không gian tư duy biệt lập. Hồ Trung Tú không hình dung được Văn Món đã đọc của anh trong một không gian tư duy khác. Văn Món cũng không hình dung được, hoặc hình dung được mà không chấp nhận bước vào, không gian tư duy của tác giả. Thế là cãi nhau.
Mổ câu viết của Hồ Trung Tú để thấy cái không gian đó thế nào.
Câu 1: “Vậy hà cớ gì chúng ta không thể nói một câu thật to rằng Mỹ Sơn chính là di sản của tổ tiên ta để lại, chứ không phải là vương quốc Chămpa đã bị diệt vong?”
Câu này chỉ có thể hiểu là: Mỹ Sơn là di sản của “tổ tiên ta” chứ không phải là di sản của vương quốc Champa (đã bị diệt vong). Ngay cả khi tác giả muốn nói “tổ tiên ta” là người Chăm thì câu này vẫn sai. Mỹ Sơn là thánh địa của một vương quốc Chăm Pa. Nó phải là di sản của vương quốc Champa này. Không thể viết khác được. Câu viết chính xác phải là: Mỹ Sơn là di sản của Vương quốc Champa và là di sản của tổ tiên ta để lại. Tác giả Hồ Trung Tú chắc chắn hiểu điều này. Tại sao anh không viết như thế?
Bên cạnh đó cụm từ “đã bị diệt vong” là không cần thiết. Nếu dùng cụm từ này cho Champa thì cũng phải dùng nó cho các vương quốc như Phù Nam, Văn Lang (nếu có nó thật), Âu Lạc, Nam Việt, Lâm Ấp, Vạn Xuân. Các vương quốc này đều bị diệt vong.
Câu 2: “Đó là di sản văn hoá của người Việt chứ không phải của một nền văn minh bị biến mất như các tờ rơi du lịch giới thiệu!”.
Câu này có vấn đề ngay lập tức: “người Việt”. Ai là người Việt? “Người Việt” trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam là một từ mới. Cho đến thế kỷ 19, trí thức Việt Nam vẫn tự nhận họ là “Hán dân”. Đầu thế kỷ 20, họ vẫn gọi họ là “người Nam”. “Người Kinh” xuất hiện muộn hơn nữa. Trong mối tương quan với các tộc dân thiểu số, các khái niệm này cần phải được định nghĩa rõ ràng. Khái niệm “người Việt”, theo Hồ Trung Tú (và theo nghĩa thông thường), không bao gồm người Chăm hay người thiểu số ở Tây Bắc, Việt Bắc, hoặc Tây Nguyên. Hồ Trung Tú viết “người Việt”, “người Chăm”. Văn Món hiểu y như thế.
Đó là chưa nói đến cụm từ “bị biến mất” để đối xứng với “bị diệt vong” ở trên. Văn hóa Đông Sơn cũng “bị biến mất” nhưng không thấy ai dùng cụm từ này với nó.
Câu 3: “Nó bình đẳng với chùa Một Cột, Cổ loa hay bất cứ thứ gì gây nên sự tự hào trong tâm hồn mỗi người dân Việt.”
Yêu cầu Mỹ Sơn được bình bình đẳng với các biểu tượng quốc gia khác là một yêu cầu rất đáng ngưỡng mộ ở tác giả. Nhưng vấn đề vẫn là “sự tự hào trong tâm hồn mỗi người dân Việt”, một loại “dân Việt” không có Chăm.
Đến đây thì sự phẫn nộ của Văn Món là có thể hiểu được. Đọc Hồ Trung Tú, chúng ta, tư duy trong cùng một không gian “người Việt” với tác giả, có thể nhận ngay ra điều Hồ Trung Tú muốn nói. Tác giả muốn nói điều hoàn toàn khác những gì Văn Món hiểu. Nhưng anh đã không nói cho Văn Món hiểu được. Anh viết thêm một bài dài để biện minh mà cũng vẫn không nói cho Văn Món hiểu được. Anh đưa chúng ta về lại với nhận định trong đoạn đầu tiên của cái note này: Một người chỉ có thể nhìn rõ về quá khứ trong chừng mực mà ánh sáng soi rọi từ những ý niệm của họ về tương lai cho phép. Cái ánh sáng soi rọi từ ý niệm của Hồ Trung Tú về tương lai chỉ đủ cho tác giả nói đến bấy nhiêu thôi.
Phần lớn những người Việt Nam hiện đại viết sử Việt Nam không ý thức được rằng họ viết và tư duy trong không gian của một ý thức hệ dân tộc (national ideology). Cái ý thức hệ dân tộc chi phối sinh hoạt học thuật và tư tưởng của trí thức Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua là một thứ ý thức hệ dân tộc thống nhất. Ý thức hệ này cho rằng có một “dân tộc Việt” nào đó, nhất quán, đã tồn tại từ xưa, bắt nguồn đâu đó từ Hùng Vương hay xa hơn nữa từ Lộc Tục, tùy theo bạn nói chuyện với ai. Nó mang nặng màu sắc dân tộc lớn, một sản phẩm của văn hóa Hán, cho rằng nó có sứ mệnh chinh phục những “dân tộc” nhỏ hơn. Ngay cả khi nó nhìn nhận sự đóng góp về văn hóa của các “dân tộc” nhỏ vào sự tồn tại của chính nó thì nó cũng ngạo mạn cho rằng đó là định mệnh của lịch sử. Trong tiến trình hình thành nhà nước tập quyền của nó, nó đẩy các “dân tộc” nhỏ đến bờ vực của diệt vong.
Ý thức hệ này hình thành cũng lúc với các biểu tưởng về nguồn gốc và các anh hùng của nó. Nó phát minh ra những khái niệm mới để mô tả chính nó. “Người Việt”, “người Kinh” là những khái niệm như thế. Các biểu tượng và từ ngữ này tồn tại trong vô thức của đám đông để củng cố cho nó. Đến lúc nào đó người ta quên đi nó là một sáng tạo. (Để nhằm mục đích gì là một chuyện khác, bàn lúc khác.)
Trở lại với tác giả Hồ Trung Tú.
Tại sao anh không viết Vương quốc Champa kia cũng là di sản lịch sử của quốc gia Việt Nam hiện đại? Nếu Văn Lang, Âu Lạc, Vạn Xuân là một phần của di sản lịch sử thì lý do gì Phù Nam, Champa không là di sản lịch sử? Tại sao nhận Mỹ Sơn là di sản văn hóa nhưng lại từ chối vương quốc Champa và cho rằng nó bị diệt vong?
Đơn giản vì cái ý thức hệ dân tộc của anh không cho phép anh nhìn nhận điều đó. Ý thức hệ dân tộc thống nhất Việt từ chối tất cả mọi di sản chính trị ngoài di sản chính trị của riêng nó. Nó từ chối tất cả mọi biểu tượng nguồn gốc và anh hùng ngoài biểu tượng nguồn gốc và anh hùng của riêng nó.
Để lập luận của mình đứng vững, và để những người tư duy trong những không gian văn hóa và lịch sử thiểu số hiểu điều mình muốn nói, Hồ Trung Tú phải đặt lập luận của anh trên nền tảng của một ý thức hệ dân tộc mới. Ý thức hệ này phải đủ bao dung để tất cả mọi sắc dân đã làm nên quốc gia Việt Nam hiện đại, dù quá khứ lịch sử thế nào đi nữa, có thể tìm lại cho chính họ một không gian để nuôi dưỡng và duy trì ký ức lịch sử và văn hóa của họ.
Nếu không làm được điều này thì tác giả "Có 500 năm như thế" vẫn chưa thoát ra khỏi cái vòng kim cô của "dân tộc chủ nghĩa".
Văn Món, trong hai bài bình luận của mình, trên website nguoicham.com, vặn vẹo câu viết của tác giả Hồ Trung Tú trong cuốn sách của anh, cho rằng nó “lạc lõng” và “tráo trở”. Trích, “Tác giả đã ngang nhiên phủ nhận giữa ban ngày ban mặt cả một Di sản đền tháp Mỹ Sơn – một nền văn minh Champa may mắn ẩn mình trong rừng sâu nên vô tình còn sót lại để con cháu Champa ngày nay có một chút tự hào với bè bạn, giao lưu với các dân tộc anh em và đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới vào 12/2009. Thế mà tác giả cho rằng Mỹ Sơn không phải di sản của vương quốc Champa mà đó chính là của người Việt.”
Chưa hết, trong bài tiếp theo, Văn Món kết tội Inrasara, người viết lời giới thiệu cuốn sách này, “dùng phép ảo thuật để biện hộ cho cái sai” không thể cứu vãn nổi của Hồ Trung Tú.
Đến lượt mình, Hồ Trung Tú cáo buộc Văn Món “rơi vào dân tộc chủ nghĩa”.
Hồ Trung Tú đã viết gì mà gây tranh cãi lớn tiếng với nhau như thế?
Anh viết:
“Vậy hà cớ gì chúng ta không thể nói một câu thật to rằng Mỹ Sơn chính là di sản của tổ tiên ta để lại, chứ không phải là vương quốc Chămpa đã bị diệt vong? Đó là di sản văn hoá của người Việt chứ không phải của một nền văn minh bị biến mất như các tờ rơi du lịch giới thiệu! Nó bình đẳng với chùa Một Cột, Cổ loa hay bất cứ thứ gì gây nên sự tự hào trong tâm hồn mỗi người dân Việt”
Cuộc cãi cọ có vẽ như là một cuộc tranh giành di sản thường thấy. Nhưng vấn đề ở đây không đơn giản như thế. Từ trong cách viết của Hồ Trung Tú và cách đọc của Văn Món phản ảnh hai không gian tư duy biệt lập. Hồ Trung Tú không hình dung được Văn Món đã đọc của anh trong một không gian tư duy khác. Văn Món cũng không hình dung được, hoặc hình dung được mà không chấp nhận bước vào, không gian tư duy của tác giả. Thế là cãi nhau.
Mổ câu viết của Hồ Trung Tú để thấy cái không gian đó thế nào.
Câu 1: “Vậy hà cớ gì chúng ta không thể nói một câu thật to rằng Mỹ Sơn chính là di sản của tổ tiên ta để lại, chứ không phải là vương quốc Chămpa đã bị diệt vong?”
Câu này chỉ có thể hiểu là: Mỹ Sơn là di sản của “tổ tiên ta” chứ không phải là di sản của vương quốc Champa (đã bị diệt vong). Ngay cả khi tác giả muốn nói “tổ tiên ta” là người Chăm thì câu này vẫn sai. Mỹ Sơn là thánh địa của một vương quốc Chăm Pa. Nó phải là di sản của vương quốc Champa này. Không thể viết khác được. Câu viết chính xác phải là: Mỹ Sơn là di sản của Vương quốc Champa và là di sản của tổ tiên ta để lại. Tác giả Hồ Trung Tú chắc chắn hiểu điều này. Tại sao anh không viết như thế?
Bên cạnh đó cụm từ “đã bị diệt vong” là không cần thiết. Nếu dùng cụm từ này cho Champa thì cũng phải dùng nó cho các vương quốc như Phù Nam, Văn Lang (nếu có nó thật), Âu Lạc, Nam Việt, Lâm Ấp, Vạn Xuân. Các vương quốc này đều bị diệt vong.
Câu 2: “Đó là di sản văn hoá của người Việt chứ không phải của một nền văn minh bị biến mất như các tờ rơi du lịch giới thiệu!”.
Câu này có vấn đề ngay lập tức: “người Việt”. Ai là người Việt? “Người Việt” trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam là một từ mới. Cho đến thế kỷ 19, trí thức Việt Nam vẫn tự nhận họ là “Hán dân”. Đầu thế kỷ 20, họ vẫn gọi họ là “người Nam”. “Người Kinh” xuất hiện muộn hơn nữa. Trong mối tương quan với các tộc dân thiểu số, các khái niệm này cần phải được định nghĩa rõ ràng. Khái niệm “người Việt”, theo Hồ Trung Tú (và theo nghĩa thông thường), không bao gồm người Chăm hay người thiểu số ở Tây Bắc, Việt Bắc, hoặc Tây Nguyên. Hồ Trung Tú viết “người Việt”, “người Chăm”. Văn Món hiểu y như thế.
Đó là chưa nói đến cụm từ “bị biến mất” để đối xứng với “bị diệt vong” ở trên. Văn hóa Đông Sơn cũng “bị biến mất” nhưng không thấy ai dùng cụm từ này với nó.
Câu 3: “Nó bình đẳng với chùa Một Cột, Cổ loa hay bất cứ thứ gì gây nên sự tự hào trong tâm hồn mỗi người dân Việt.”
Yêu cầu Mỹ Sơn được bình bình đẳng với các biểu tượng quốc gia khác là một yêu cầu rất đáng ngưỡng mộ ở tác giả. Nhưng vấn đề vẫn là “sự tự hào trong tâm hồn mỗi người dân Việt”, một loại “dân Việt” không có Chăm.
Đến đây thì sự phẫn nộ của Văn Món là có thể hiểu được. Đọc Hồ Trung Tú, chúng ta, tư duy trong cùng một không gian “người Việt” với tác giả, có thể nhận ngay ra điều Hồ Trung Tú muốn nói. Tác giả muốn nói điều hoàn toàn khác những gì Văn Món hiểu. Nhưng anh đã không nói cho Văn Món hiểu được. Anh viết thêm một bài dài để biện minh mà cũng vẫn không nói cho Văn Món hiểu được. Anh đưa chúng ta về lại với nhận định trong đoạn đầu tiên của cái note này: Một người chỉ có thể nhìn rõ về quá khứ trong chừng mực mà ánh sáng soi rọi từ những ý niệm của họ về tương lai cho phép. Cái ánh sáng soi rọi từ ý niệm của Hồ Trung Tú về tương lai chỉ đủ cho tác giả nói đến bấy nhiêu thôi.
Phần lớn những người Việt Nam hiện đại viết sử Việt Nam không ý thức được rằng họ viết và tư duy trong không gian của một ý thức hệ dân tộc (national ideology). Cái ý thức hệ dân tộc chi phối sinh hoạt học thuật và tư tưởng của trí thức Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua là một thứ ý thức hệ dân tộc thống nhất. Ý thức hệ này cho rằng có một “dân tộc Việt” nào đó, nhất quán, đã tồn tại từ xưa, bắt nguồn đâu đó từ Hùng Vương hay xa hơn nữa từ Lộc Tục, tùy theo bạn nói chuyện với ai. Nó mang nặng màu sắc dân tộc lớn, một sản phẩm của văn hóa Hán, cho rằng nó có sứ mệnh chinh phục những “dân tộc” nhỏ hơn. Ngay cả khi nó nhìn nhận sự đóng góp về văn hóa của các “dân tộc” nhỏ vào sự tồn tại của chính nó thì nó cũng ngạo mạn cho rằng đó là định mệnh của lịch sử. Trong tiến trình hình thành nhà nước tập quyền của nó, nó đẩy các “dân tộc” nhỏ đến bờ vực của diệt vong.
Ý thức hệ này hình thành cũng lúc với các biểu tưởng về nguồn gốc và các anh hùng của nó. Nó phát minh ra những khái niệm mới để mô tả chính nó. “Người Việt”, “người Kinh” là những khái niệm như thế. Các biểu tượng và từ ngữ này tồn tại trong vô thức của đám đông để củng cố cho nó. Đến lúc nào đó người ta quên đi nó là một sáng tạo. (Để nhằm mục đích gì là một chuyện khác, bàn lúc khác.)
Trở lại với tác giả Hồ Trung Tú.
Tại sao anh không viết Vương quốc Champa kia cũng là di sản lịch sử của quốc gia Việt Nam hiện đại? Nếu Văn Lang, Âu Lạc, Vạn Xuân là một phần của di sản lịch sử thì lý do gì Phù Nam, Champa không là di sản lịch sử? Tại sao nhận Mỹ Sơn là di sản văn hóa nhưng lại từ chối vương quốc Champa và cho rằng nó bị diệt vong?
Đơn giản vì cái ý thức hệ dân tộc của anh không cho phép anh nhìn nhận điều đó. Ý thức hệ dân tộc thống nhất Việt từ chối tất cả mọi di sản chính trị ngoài di sản chính trị của riêng nó. Nó từ chối tất cả mọi biểu tượng nguồn gốc và anh hùng ngoài biểu tượng nguồn gốc và anh hùng của riêng nó.
Để lập luận của mình đứng vững, và để những người tư duy trong những không gian văn hóa và lịch sử thiểu số hiểu điều mình muốn nói, Hồ Trung Tú phải đặt lập luận của anh trên nền tảng của một ý thức hệ dân tộc mới. Ý thức hệ này phải đủ bao dung để tất cả mọi sắc dân đã làm nên quốc gia Việt Nam hiện đại, dù quá khứ lịch sử thế nào đi nữa, có thể tìm lại cho chính họ một không gian để nuôi dưỡng và duy trì ký ức lịch sử và văn hóa của họ.
Nếu không làm được điều này thì tác giả "Có 500 năm như thế" vẫn chưa thoát ra khỏi cái vòng kim cô của "dân tộc chủ nghĩa".