Huy Đức
Không hiểu vì sao Hiến pháp lại được đưa ra sửa khi những ý tưởng cải cách trong Đảng thì thiếu vắng và tình hình theo nhiều người là vẫn “chưa đủ xấu”. Nếu không xuất phát từ nhu cầu cải cách, việc sửa đổi Hiến pháp chỉ là vá víu. Rất tiếc là Đảng Cộng sản Việt Nam thường chỉ chấp nhận cải cách khi bị dồn tới chân tường, Đại hội VI năm 1986 là ví dụ.
Chỉ chưa đầy 5 thập niên (1946-1992), Việt Nam có 4 lần thay Hiến pháp. Năm 1959, khi môi trường chính trị để vận hành một nhà nước dân chủ và đoàn kết toàn dân theo Hiến pháp 1946 không còn, Đảng Cộng sản hình thành ở miền Bắc một nhà nước do “giai cấp công nhân lãnh đạo”. Tháng 6-1976, sau khi chiến thắng người anh em ở miền Nam, trong tâm thế “ta đang tới đỉnh cao nhân loại”, Quốc hội Thống nhất quyết định thay thế Hiến pháp 1959, thiết lập trên cả nước một nhà nước chuyên chính vô sản hơn. Nhưng, đường lối Đại hội Đảng lần thứ IV và mô hình nhà nước theo Hiến pháp 1980 đã nhanh chóng đưa Việt Nam tới chỗ bế tắc. Đảng phải tìm lối thoát bằng cách chia tay với mô hình copy từ Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
Hiến pháp 1992 đã từ bỏ bớt quyền lực tập trung. Từ chỗ không thể đưa ký gạo từ quê lên, đến thập niên 1990, người dân đã có thể lập công ty, được đi lại, được ra cả nước ngoài mua bán. Trong kinh tế cũng như trong chính trị, một quốc gia chỉ trở nên thịnh vượng khi người dân thực sự có quyền. Bản chất của “đổi mới” mà Đảng thường nói đến như một công lao chỉ đơn giản là trả lại cho người dân một phần quyền, trong đó có quyền được tự lo lấy cơm ăn, áo mặc.
Khi Quốc hội công bố sửa đổi Hiến pháp 1992, nhiều người đề nghị: Thay vì quan niệm Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, nên thiết kế Hiến pháp như một bản khế ước xã hội, theo đó, “con người chính thức đánh đổi quyền tự do tự nhiên để trở thành một công dân, chính thức trao một phần quyền tự do quyết định của mình vào tay một số người cầm quyền để có được sự chở che của xã hội”. Tuy nhiên, chỉ trong một chế độ thực sự dân chủ, hiến pháp cũng như các đạo luật khác mới trở thành một khế ước. Đảng biết trước câu trả lời khi các vấn đề sau đây phải trưng cầu dân ý: Điều 4; quyền tư hữu về ruộng đất cho người dân; mô hình chính trị…
Quyền sửa đổi Hiến pháp 1992 chưa thuộc về nhân dân mà đang ở trong tay Đảng Cộng sản Việt Nam, thay vì kiến tạo một nhà nước pháp quyền (rule of law), bản Hiến pháp mới chỉ có thể là bộ luật cơ bản để tiện bề “quản lý” (rule by law). Ngay cả trong điều kiện đó thì Đảng cũng phải biết mình muốn tổ chức một nhà nước theo mô hình nào: Tản quyền hay tập quyền? Cộng hòa tổng thống hay cộng hòa nghị viện? Mô hình ít xáo trộn nhất với điều kiện hiện nay là cộng hòa bán tổng thống: Chủ tịch nước vừa là nguyên thủ quốc gia vừa đứng đầu chính phủ nhưng chỉ nắm các quyền ngoại giao và an ninh, quốc phòng; Thủ tướng tập trung lãnh đạo các vấn đề kinh tế. Chủ tịch nước có thể được bầu bởi 2/3 đại biểu quốc hội hoặc được bầu bởi số phiếu quá bán của quốc hội cùng toàn thể đại biểu các hội đồng nhân dân ở cấp thành và cấp tỉnh.
Nhưng trước hết, cải cách phải được tiến hành trong Đảng. Đội ngũ cán bộ Đảng nên được phân công theo hướng: Có những người làm công tác Đảng chuyên trách và có những người được Đảng đưa sang ứng cử các chức danh nhà nước. Những người chuyên trách ở cấp Trung ương được gọi là Ban Bí thư, gồm các chiến lược gia, chịu trách nhiệm tìm kiếm nhân sự cho Đảng và chuẩn bị các vấn đề lý luận. Các văn kiện của Ban Bí thư chỉ có giá trị lưu hành nội bộ.
Đại hội của Đảng nên diễn ra theo hai vòng: Vòng một, tổ chức tranh cử trong Đảng để bầu các ứng cử viên ra ứng cử đại biểu hội đồng nhân dân (ở các đảng bộ địa phương) và ứng cử đại biểu Quốc hội (ở đảng bộ toàn quốc). Số lượng ứng cử viên mà Đảng bầu ra phải nhiều gấp đôi số đại biểu cần thiết. Những ứng cử viên của Đảng trúng cử đại biểu Quốc hội đương nhiên trở thành trung ương ủy viên. Sau bầu cử Quốc hội và hội đồng nhân dân, Đảng tổ chức đại hội vòng hai để cho các Trung ương ủy viên ra tranh cử ứng cử viên chức Chủ tịch nước và các ủy viên Bộ Chính trị. Đại hội giới thiệu ít nhất hai ứng cử viên để bầu Chủ tịch nước. Ai đắc cử Chủ tịch nước người đó đương nhiên trở thành Tổng Bí thư. Chủ tịch nước sẽ lập nội các bao gồm các thành viên trong Bộ Chính trị.
Quốc hội chỉ nên có không quá 400 người, trong đó: những đại biểu được bầu từ “bảng A”, gồm các ứng cử viên của của Đảng và những đại biểu được bầu từ “bảng B”, gồm các ứng cử viên độc lập. Chưa thể hy vọng bầu cử tự do được thiết lập trong lần sửa Hiến pháp này, nhưng nếu Đảng dành cho các ứng cử viên độc lập khoảng 100 ghế trong Quốc hội thì Đảng vẫn nắm quyền quyết định nhưng nhân dân sẽ có tiếng nói; các vấn đề kinh tế, xã hội sẽ được mổ xẻ, lương tri của các đại biểu là trung ương ủy viên sẽ được đánh thức; quy trình quyết định được giám sát chính trị một cách chặt chẽ hơn, tránh được các rủi ro do áp đặt và thiếu phản biện khi ban hành chính sách.
Tất cả ứng cử viên tất nhiên phải là công dân Việt Nam, nhưng hiện có hàng triệu người Việt đang sống ở nước ngoài và nhiều người trong số họ đang có hai quốc tịch. Nên quy định, chỉ những công dân Việt Nam không mang quốc tịch khác, hoặc đã từ bỏ quốc tịch khác, đã định cư trong nước ít nhất là 5 năm trước ngày bầu cử mới được quyền ứng cử. Chỉ có một đảng thì không thể đòi những cuộc bầu cử có hàm lượng dân chủ cao. Nhưng nếu những người tự ứng cử không được Đảng ủng hộ bị loại ra khỏi cuộc chơi bằng tổ dân phố và mặt trận tổ quốc thì không nên tổ chức bầu cử làm gì cho tốn kém.
Có thể áp dụng quy trình hiện hành đối với những người được Đảng đưa ra đề cử. Nhưng những ứng cử viên độc lập thì chỉ cần thu thập đủ một lượng chữ ký tùy theo đơn vị bầu cử: nếu ở các thành phố lớn thì có thể 10 nghìn; nếu ở miền núi thì có nơi chỉ cần 500 đến 1000 chữ ký. Tất cả các đại biểu Quốc hội, trừ những người tham gia nội các, là Trung ương ủy viên hay đại biểu độc lập, đều có quyền ngang nhau. Họ vừa có văn phòng làm việc ở Hà Nội và ở nơi ứng cử. Nội các và các đại biểu Quốc hội đều được bố trí nhà công vụ ở Thủ đô, hết nhiệm kỳ thì bàn giao lại cho những người kế tiếp.
Theo mô hình này, quyền lực được phân bớt cho các địa phương. Chính quyền trung ương chỉ nắm những quyền đủ để kiểm soát sự phát triển thống nhất của quốc gia. Các tỉnh trưởng không nhất thiết tham gia Ban chấp hành Trung ương, nhưng nhiều người trong số họ có thể là ứng cử viên hàng đầu của chức Chủ tịch nước trong nhiệm kỳ kế tiếp.
Tòa án bao gồm: tòa địa phương, xử các tội hình sự liên quan đến giựt dọc, trộm cắp… thẩm phán tòa này do tỉnh trưởng bổ nhiệm, được phê chuẩn bởi hội đồng nhân dân; tòa quốc gia, xử các tội đại hình, các tội tham nhũng và các tội phạm về chức vụ… thẩm phán tòa này do Chủ tịch nước bổ nhiệm, Quốc hội phê chuẩn. Các ứng cử viên thẩm phán bao gồm các luật sư danh tiếng hoặc các thẩm phán liêm chính được chọn từ tòa dưới. Chính quyền Trung ương chỉ cần có bộ an ninh và cục điều tra quốc gia. Trừ những vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của các tòa địa phương, quyền điều tra nằm trong tay cục điều tra quốc gia. Lực lượng cảnh sát nên giao về cho địa phương, căn cứ tình hình, các địa phương sẽ quyết định lương thưởng, biên chế… Những thành phố đông dân như Sài Gòn sẽ tuyển đủ lực lượng cảnh sát cần dùng thay vì đưa thanh niên xung phong ra điều hành giao thông. Ở những địa phương mà người dân sống thân thiện với nhau họ có thể thay cảnh sát bằng vài “hiệp sỹ”.
Quân đội chỉ được xây dựng theo nguyên tắc chính quy, tinh nhuệ, chỉ được dùng để bảo vệ nhân dân và từng tấc đất của ông cha. Cho dù ai nắm quyền thì quân đội cũng chỉ trung thành với tổ quốc. Quân đội mà lo bảo vệ Đảng hơn bảo vệ biên cương, thì khi chính trị trong nước không ổn định, Trung Quốc sẽ thừa cơ chiếm đảo.
Theo mô hình này, chỉ có một người thực sự là nguyên thủ quốc gia thay vì có tới 4 nhân vật được hưởng chế độ nguyên thủ như đang áp dụng. Trừ các vấn đề liên quan đến công tác Đảng do Ban Bí thư đảm trách, các quyết định của Bộ Chính trị đồng thời là quyết định của nội các. Không cần qua giai đoạn “thể chế hóa” mới có giá trị thi hành. Nó không chỉ chịu sự giám sát của Ban chấp hành Trung ương mà còn chịu sự giám sát của các đại biểu độc lập. Chức năng không bị trùng lắp, quy trình ban hành các quyết định được rút ngắn, địa chỉ để quy trách nhiệm cũng rõ. Vai trò lãnh đạo của Đảng cũng tương đối chính danh vì các nhà lãnh đạo chỉ có thể trở thành Tổng Bí thư, ủy viên Bộ chính trị, ủy viên Trung ương sau khi được “nhân dân phúc quyết”.
Cho dù tiếp tục giữ quyền viết Hiến pháp thì Đảng cũng hãy vì sự thịnh vượng của quốc gia mà chia sẻ bớt quyền lực cho nhân dân. Đừng nghĩ là tình hình chưa đủ xấu. Đừng nhìn các mâu thuẫn xã hội dựa trên các báo cáo hay dựa trên mấy câu leo lẻo của những người vẫn tới tặng quà: “Anh lãnh đạo chúng em làm ăn được”. Nhân dân đang bị nhũng nhiễu. Cái ác đang hoành hành. Nhiều “chức năng” đang phải vận hành bằng tiền bạc trong khi đa số nhân dân thì thiếu tiền nhất là tiền để mưu cầu công lý. Nên nhớ là những cuộc nổi dậy thường bắt đầu từ những uất ức của người dân trước những bất công chứ không phải từ những trí thức đang lên tiếng nhằm thức tỉnh chính quyền. Thay vì đào những đường hầm để thoát thân khi có biến như Gaddafi, ngay bây giờ hãy khai thông các lối ra cho toàn dân tộc.