(Hotrungnghia-24/10/11) Châu Á đang chứng kiến sự xô đẩy giữa các nước lớn ở đó - Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ - đang giành cho mình không gian chiến lược khu vực, và một loạt các hoạt động của các quốc gia này là tập trung đối với khu vực Đông Nam Á, trước kia đây là một khu vực ổn định, nhưng bây giờ là một khu vực tiềm năng cho các cuộc xung đột. Trung Quốc, nước đã là một thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (HĐBA), là một nước đang có giấc mơ siêu cường, trong khi Nhật Bản và Ấn Độ đang mong mỏi để trở thành một thành viên thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Một chủ đề chung của ba nước là cả ba cần một hệ thống thuận lợi trong khu vực để làm cái giá cho vị trí và uy tín của họ.
F/A-18E/F của Nhật Bản. |
Đồng thời, các nước Đông Nam Á bây giờ ngày càng chào đón các quyền lực lớn, bao cả gồm Hoa Kỳ, họ được tham gia trong các vấn đề an ninh của khu vực để làm đối trọng với Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp Biển Đông. Trung Quốc có liên quan đến tranh chấp lãnh thổ tại các quần đảo Trường Sa giàu tài nguyên và quần đảo Hoàng Sa trong vùng biển về phía Nam Trung Quốc ( biển Đông Việt Nam) với Việt Nam, Philippines, Brunei và Malaysia.
Trung Quốc đang ngày càng khẳng định bản thân trong Biển Đông Việt Nam, các hành động mới nhất là hoàn thành dàn khoan lớn nhất từ trước tới nay, có những hành động đe dọa Việt Nam như cắt dây cáp thăm dò tàu khảo sát Việt Nam. Các phương tiện truyền thông của Trung Quốc cho biết rằng lực lượng giám sát hàng hải dân sự sẽ được tăng lên từ 1.500 đến 9.000 nhân viên vào năm 2020 để bảo vệ lợi ích của Trung Quốc trong các biển.
Gần đây, Nhật Bản đã có những lời đề nghị chính đối với khu vực, đặc biệt là với các thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Người thứ cấp Bộ quốc phòng Nhật Bản, ông Kimito Nakae, cho biết sau một cuộc họp của các quan chức quốc phòng Nhật Bản với các đối tác ASEAN tại Tokyo vào tháng Chín, rằng mối quan hệ đã "trưởng thành từ các cuộc đối thoại mà Nhật Bản đang đóng một vai trò cụ thể trong hợp tác" trên một loạt các hoạt động về an ninh và các vấn đề liên quan đến khu vực. Bên cạnh đó, hai bên đã tìm cách tăng cường hợp tác khu vực trong bối cảnh Trung Quốc tuyên bố và mở rộng đường lưỡi bò của họ trong vùng biển phía Nam (Biển Đông Việt Nam), và Tokyo tỏ tín hiệu sẵn sàng đóng một vai trò lớn hơn với các nước trong khu vực.
Tokyo và Hà Nội gần đây đã ký một thỏa thuận về hợp tác năng lượng hạt nhân và một tập đoàn có trụ sở tại Tokyo đã bắt đầu nghiên cứu khả thi việc xây dựng hai lò phản ứng hạt nhân 1.000 megawatt tại Việt Nam. Các lò phản ứng dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào năm 2021 và 2022. Mặc dù sự cố Fukushima đã tạo ra một trở ngại, hơn nữa ở cấp độ trong nước với các công ty điện hạt nhân Nhật Bản, họ đang tích cực tìm kiếm cơ hội tại các thị trường nước ngoài.
Một sự phát triển sẽ giúp Nhật Bản đạt được chiều sâu chiến lược lớn hơn vào khu vực ASEAN đó là thỏa thuận với Philippine về an ninh hàng hải, được ký kết trong chuyến thăm của Tổng thống Benigno Aquino III tới Tokyo vào tháng Chín. Một mối quan hệ đối tác chiến lược với Philippine và nước này không chỉ cung cấp cho Nhật Bản cơ hội để đóng một vai trò quan trọng trong bộ máy an ninh của khu vực Đông Nam Á, mà còn đối với các nước trong khu vực có thể tạo ra một sự tin tưởng vào khả năng chống chịu đối với sự quyết đoán của Trung Quốc. Cả Trung Quốc và Nhật Bản đang cùng một nhiệm vụ cạnh tranh, và cố gắng để ngăn chặn sự gia tăng của của nhau để thống trị khu vực.
Mặt khác, Ấn Độ đã quyết định tiếp tục hoạt động thăm dò hydrocarbon trong hai khối ở hai lô dầu khí do Tổng công ty Dầu khí tự nhiên (ONGC) thăm dò khai thác trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) tuyên bố chủ quyền của Việt Nam, bất chấp sự phản đối của Trung Quốc. Trong chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến Ấn Độ vào ngày 12-15, hai nước đã ký một biên bản ghi nhớ chung cho các hoạt động thăm dò dầu khí ở vùng biển phía Nam Trung Hoa và là biển Đông Việt Nam, bên cạnh đó là việc bắt đầu một cuộc đối thoại chiến lược giữa hai nước. Trung Quốc đã nêu ra sự phản đối của họ đối với các dự án thăm dò của Ấn Độ, Trung Quốc có chủ quyền "không thể chối cãi" đối với biển Đông Việt Nam. Phải thừa nhận rằng, ngày 12 Tháng Mười, báo Tin tức Năng lượng Trung Quốc, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản công bố rằng hợp tác giữa Ấn Độ và Việt Nam trong vùng biển này là một ý tưởng tồi, và cảnh báo rằng "chiến lược năng lượng của Ấn Độ đang tiến vào một xoáy nước cực kỳ nguy hiểm ".
Các lĩnh vực hàng hải đã trở thành một nguồn chính của các cuộc xung đột trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương so với các bộ phận khác trên thế giới. Nhà phân tích nổi tiếng Robert Kaplan lập luận rằng, "Đông Á, hay chính xác hơn phương Tây - Thái Bình Dương, đang nhanh chóng trở thành trung tâm mới của hoạt động hải quân thế giới," ...sự im lặng của Trung Quốc là tính ưu việt chiến lược trong khu vực Đông Á đã dẫn đến một thời kỳ hiện đại hóa quân sự của các nước khác trong khu vực. Thật vậy, để phù hợp với định lượng tăng cường quân sự của Trung Quốc, tất cả các nước trong khu vực đang thực hiện cả hai việc là tăng chất lượng và số lượng các chương trình vũ khí hóa.
Rõ ràng, Trung Quốc đã tạo dựng nên một chính sách tinh tế ở nước ngoài đối với khu vực Đông Nam Á trong những năm qua. Ban đầu họ theo ngoại giao quyền lực mềm bằng cách cung cấp viện trợ kinh tế cho các dự án cơ sở hạ tầng khác nhau và mở cửa thị trường trong nước Đông Nam Á, đưa các sản phẩm được sản xuất mà vào không gây thù địch chính trị khu vực. Điều này như một yếu tố, nó đã giúp Trung Quốc ký một quy tắc ứng xử về tranh chấp vùng biển Đông Việt Nam tức vùng biển phía Nam Trung Hoa với các bên liên quan, và cuối cùng là mang lại lợi ích cho Trung Quốc là một lý thuyết "tăng cường hòa bình".
Giống như Tây bán cầu đối với Mỹ và Đông Âu với Liên Xô cũ, Trung Quốc nhất thiết phải cần một hệ thống khu vực thuận lợi để tăng cường vị trí toàn cầu của mình. Một hợp nhất kinh tế trong khu vực Đông Nam Á là không đủ cho Trung Quốc tìm cách thay đổi trật tự thế giới, một nước chính trị trước, ưu việt là cần thiết và đặc biệt là ở khu vực gần nhất. Trung Quốc đã hình dung ra một "trật tự thế giới đàm phán", trong đó mục tiêu chiến lược nhằm bảo đảm là để tránh đối đầu trực tiếp với Mỹ, nhưng chuẩn bị các điều kiện thuận lợi để hình thành trật tự riêng của mình - một trật tự thứ bậc - trong dài hạn ở châu Á.
Trung Quốc cần một khu vực hòa bình hiện nay, nếu không thì tham vọng lâu dài của Trung Quốc có thể bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, trái với tính toán của họ, không có các quốc gia ven biển nào sẵn sàng chấp nhận uy quyền tối cao của Trung Quốc ở vùng biển phía Nam Trung Quốc(Biển Đông Việt Nam). Do đó Trung Quốc trong thời gian gần đây chuyển sự chú ý của nó đến các khu vực Tây Nam Châu Á bao gồm Pakistan, Afghanistan và Iran để đóng một vai trò chính trị lớn hơn và đặc biệt sau khi Mỹ rút quân khỏi Afghanistan vào năm 2014. Điều này có thể cung cấp cho Trung Quốc một hệ thống khu vực thuận lợi hơn cũng như cung cấp một sự đảm bảo cho khu vực Ấn Độ Dương. Tuy nhiên, khu vực Đông Nam Á vẫn còn là một thách thức đối với tham vọng toàn cầu của Trung Quốc.
Trong những năm tới, tất cả các cường quốc lớn của châu Á có thể được dự kiến sẽ gia tăng sự hiện diện của họ, cả về kinh tế và chính trị, trong khu vực. Điểm mấu chốt của mỗi một nỗ lực là để làm tăng thêm tình quyền uy và sức mạnh của mình, mặc dù vậy việc ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc thống trị khu vực cũng nổi lên trong các tính toán chiến lược của Ấn Độ và Nhật Bản.
Nếu ba quốc không giới hạn các hoạt động và thận trọng trong khi tham gia với cuộc cạnh tranh chiến lược, châu Á sẽ là nơi sẵn sàng cho một cuộc xung đột quân sự tiềm năng.
Trung Quốc đang ngày càng khẳng định bản thân trong Biển Đông Việt Nam, các hành động mới nhất là hoàn thành dàn khoan lớn nhất từ trước tới nay, có những hành động đe dọa Việt Nam như cắt dây cáp thăm dò tàu khảo sát Việt Nam. Các phương tiện truyền thông của Trung Quốc cho biết rằng lực lượng giám sát hàng hải dân sự sẽ được tăng lên từ 1.500 đến 9.000 nhân viên vào năm 2020 để bảo vệ lợi ích của Trung Quốc trong các biển.
Gần đây, Nhật Bản đã có những lời đề nghị chính đối với khu vực, đặc biệt là với các thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Người thứ cấp Bộ quốc phòng Nhật Bản, ông Kimito Nakae, cho biết sau một cuộc họp của các quan chức quốc phòng Nhật Bản với các đối tác ASEAN tại Tokyo vào tháng Chín, rằng mối quan hệ đã "trưởng thành từ các cuộc đối thoại mà Nhật Bản đang đóng một vai trò cụ thể trong hợp tác" trên một loạt các hoạt động về an ninh và các vấn đề liên quan đến khu vực. Bên cạnh đó, hai bên đã tìm cách tăng cường hợp tác khu vực trong bối cảnh Trung Quốc tuyên bố và mở rộng đường lưỡi bò của họ trong vùng biển phía Nam (Biển Đông Việt Nam), và Tokyo tỏ tín hiệu sẵn sàng đóng một vai trò lớn hơn với các nước trong khu vực.
Tokyo và Hà Nội gần đây đã ký một thỏa thuận về hợp tác năng lượng hạt nhân và một tập đoàn có trụ sở tại Tokyo đã bắt đầu nghiên cứu khả thi việc xây dựng hai lò phản ứng hạt nhân 1.000 megawatt tại Việt Nam. Các lò phản ứng dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào năm 2021 và 2022. Mặc dù sự cố Fukushima đã tạo ra một trở ngại, hơn nữa ở cấp độ trong nước với các công ty điện hạt nhân Nhật Bản, họ đang tích cực tìm kiếm cơ hội tại các thị trường nước ngoài.
Một sự phát triển sẽ giúp Nhật Bản đạt được chiều sâu chiến lược lớn hơn vào khu vực ASEAN đó là thỏa thuận với Philippine về an ninh hàng hải, được ký kết trong chuyến thăm của Tổng thống Benigno Aquino III tới Tokyo vào tháng Chín. Một mối quan hệ đối tác chiến lược với Philippine và nước này không chỉ cung cấp cho Nhật Bản cơ hội để đóng một vai trò quan trọng trong bộ máy an ninh của khu vực Đông Nam Á, mà còn đối với các nước trong khu vực có thể tạo ra một sự tin tưởng vào khả năng chống chịu đối với sự quyết đoán của Trung Quốc. Cả Trung Quốc và Nhật Bản đang cùng một nhiệm vụ cạnh tranh, và cố gắng để ngăn chặn sự gia tăng của của nhau để thống trị khu vực.
Mặt khác, Ấn Độ đã quyết định tiếp tục hoạt động thăm dò hydrocarbon trong hai khối ở hai lô dầu khí do Tổng công ty Dầu khí tự nhiên (ONGC) thăm dò khai thác trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) tuyên bố chủ quyền của Việt Nam, bất chấp sự phản đối của Trung Quốc. Trong chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến Ấn Độ vào ngày 12-15, hai nước đã ký một biên bản ghi nhớ chung cho các hoạt động thăm dò dầu khí ở vùng biển phía Nam Trung Hoa và là biển Đông Việt Nam, bên cạnh đó là việc bắt đầu một cuộc đối thoại chiến lược giữa hai nước. Trung Quốc đã nêu ra sự phản đối của họ đối với các dự án thăm dò của Ấn Độ, Trung Quốc có chủ quyền "không thể chối cãi" đối với biển Đông Việt Nam. Phải thừa nhận rằng, ngày 12 Tháng Mười, báo Tin tức Năng lượng Trung Quốc, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản công bố rằng hợp tác giữa Ấn Độ và Việt Nam trong vùng biển này là một ý tưởng tồi, và cảnh báo rằng "chiến lược năng lượng của Ấn Độ đang tiến vào một xoáy nước cực kỳ nguy hiểm ".
Các lĩnh vực hàng hải đã trở thành một nguồn chính của các cuộc xung đột trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương so với các bộ phận khác trên thế giới. Nhà phân tích nổi tiếng Robert Kaplan lập luận rằng, "Đông Á, hay chính xác hơn phương Tây - Thái Bình Dương, đang nhanh chóng trở thành trung tâm mới của hoạt động hải quân thế giới," ...sự im lặng của Trung Quốc là tính ưu việt chiến lược trong khu vực Đông Á đã dẫn đến một thời kỳ hiện đại hóa quân sự của các nước khác trong khu vực. Thật vậy, để phù hợp với định lượng tăng cường quân sự của Trung Quốc, tất cả các nước trong khu vực đang thực hiện cả hai việc là tăng chất lượng và số lượng các chương trình vũ khí hóa.
Rõ ràng, Trung Quốc đã tạo dựng nên một chính sách tinh tế ở nước ngoài đối với khu vực Đông Nam Á trong những năm qua. Ban đầu họ theo ngoại giao quyền lực mềm bằng cách cung cấp viện trợ kinh tế cho các dự án cơ sở hạ tầng khác nhau và mở cửa thị trường trong nước Đông Nam Á, đưa các sản phẩm được sản xuất mà vào không gây thù địch chính trị khu vực. Điều này như một yếu tố, nó đã giúp Trung Quốc ký một quy tắc ứng xử về tranh chấp vùng biển Đông Việt Nam tức vùng biển phía Nam Trung Hoa với các bên liên quan, và cuối cùng là mang lại lợi ích cho Trung Quốc là một lý thuyết "tăng cường hòa bình".
Giống như Tây bán cầu đối với Mỹ và Đông Âu với Liên Xô cũ, Trung Quốc nhất thiết phải cần một hệ thống khu vực thuận lợi để tăng cường vị trí toàn cầu của mình. Một hợp nhất kinh tế trong khu vực Đông Nam Á là không đủ cho Trung Quốc tìm cách thay đổi trật tự thế giới, một nước chính trị trước, ưu việt là cần thiết và đặc biệt là ở khu vực gần nhất. Trung Quốc đã hình dung ra một "trật tự thế giới đàm phán", trong đó mục tiêu chiến lược nhằm bảo đảm là để tránh đối đầu trực tiếp với Mỹ, nhưng chuẩn bị các điều kiện thuận lợi để hình thành trật tự riêng của mình - một trật tự thứ bậc - trong dài hạn ở châu Á.
Trung Quốc cần một khu vực hòa bình hiện nay, nếu không thì tham vọng lâu dài của Trung Quốc có thể bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, trái với tính toán của họ, không có các quốc gia ven biển nào sẵn sàng chấp nhận uy quyền tối cao của Trung Quốc ở vùng biển phía Nam Trung Quốc(Biển Đông Việt Nam). Do đó Trung Quốc trong thời gian gần đây chuyển sự chú ý của nó đến các khu vực Tây Nam Châu Á bao gồm Pakistan, Afghanistan và Iran để đóng một vai trò chính trị lớn hơn và đặc biệt sau khi Mỹ rút quân khỏi Afghanistan vào năm 2014. Điều này có thể cung cấp cho Trung Quốc một hệ thống khu vực thuận lợi hơn cũng như cung cấp một sự đảm bảo cho khu vực Ấn Độ Dương. Tuy nhiên, khu vực Đông Nam Á vẫn còn là một thách thức đối với tham vọng toàn cầu của Trung Quốc.
Trong những năm tới, tất cả các cường quốc lớn của châu Á có thể được dự kiến sẽ gia tăng sự hiện diện của họ, cả về kinh tế và chính trị, trong khu vực. Điểm mấu chốt của mỗi một nỗ lực là để làm tăng thêm tình quyền uy và sức mạnh của mình, mặc dù vậy việc ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc thống trị khu vực cũng nổi lên trong các tính toán chiến lược của Ấn Độ và Nhật Bản.
Nếu ba quốc không giới hạn các hoạt động và thận trọng trong khi tham gia với cuộc cạnh tranh chiến lược, châu Á sẽ là nơi sẵn sàng cho một cuộc xung đột quân sự tiềm năng.