Tống Văn Công
Sức nóng từ Bình Minh 2 chưa nguội thì sáng 9-6-2011, tàu Trung Quốc có máy bay yểm trợ lại xông vào cắt cáp tàu Viking2 đang khảo sát địa chấn ở thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam. Người phát ngôn Bộ ngoại giao ta lại phản đối mạnh mẽ hành động có tính toán, có chuẩn bị kỹ lưỡng của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Việt Nam.
Trước đó một ngày, 8-6-2011, tại thành phố Nha Trang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có bài phát biểu với tiêu đề Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo và các hoạt động kinh tế biển. Tôi rất tâm đắc nhận định này của ông: “CHÚNG TA ĐANG ĐỨNG TRƯỚC NHIỀU THÁCH THỨC GAY GẮT VỀ BẢO VỆ BIỂN ĐẢO, VỀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG BIỂN”. Thủ tướng đề ra 6 biên pháp quan trọng để khắc phục các thách thức gay gắt nói trên mà việc số 1 là “Tiếp tục khẳng định manh mẽ và thể hiện ý chí quyết tâm cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong việc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển và hải đảo của Tổ quốc”. Thông cảm với Thủ tướng và Chính phủ trong cuộc đấu tranh để vượt qua thách thức gay gắt hôm nay, tôi lại bỗng nhớ đến thách thức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc ta phải đương đầu năm 1945-1946. Có lẽ thách thức ngày ấy lớn hơn, phức tạp hơn, thù trong giặc ngoài hùng hổ hơn, thế và lực của chúng ta yếu hơn hôm nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa kiên định nguyên tắc vừa uyển chuyển sách lược, nhằm xây dựng nên mối quan hệ CHÍNH PHỦ VÀ NHÂN DÂN CÙNG MỘT Ý CHÍ BẢO VỆ NỀN ĐỘC LẬP.
Chúng ta đều nhớ lá thư Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ trước khi lên đường sang Pháp đàm phán hòa bình có câu “Hồ Chí Minh không phải là người bán nước”. Một người bao năm bôn ba vì nước, vào tù ra tội, mang án tử hình vắng mặt, vậy mà đã phải nói những lời thanh minh với đồng bào mình như vậy đấy! Khi Đoàn Việt Nam tới Paris, Tổng thư ký Công đoàn lính thợ Việt Nam ở Pháp là anh Hoàng Nghinh đã tổ chức một cuộc biểu tình với nhiều khẩu hiệu phản đối việc thương lượng với Pháp. Hồ Chủ Tịch đã có nhiều cuộc tiếp xúc với Việt kiều để nói cho đồng bào hiểu rõ quan điểm, sách lược của Chính phủ. Hội nghị Fontainebleau thất bại, Hồ Chủ Tịch về nước. Tổng thư ký Hoàng Nghinh nói với đoàn viên Công đoàn lính thợ: ”Chúng mình đã hiểu nhầm Hồ Chí Minh. Tất cả hãy tìm đường về nước đi theo ông Cụ kháng chiến giành độc lập”. Do có lý lịch tổ chức phản đối Cụ Hồ ở Pháp mà anh Hoàng Nghinh đã bị những người sắp xếp tổ chức đố kỵ, con đường “hoạn lộ” của anh luôn luôn đi xuống: Từ chỗ là trưởng Ban quốc tế của Tổng Liên đoàn Lao động VN, bị hạ xuống Trưởng ban quốc tế của báo Lao Động, rồi sau cùng xuống làm phóng viên thường trú ở vùng “túi bom” Quảng Bình, Vĩnh Linh. Dù vậy, anh luôn lạc quan dũng cảm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Có lần tôi hỏi anh Hoàng Nghinh: ”Vì sao từ chỗ nghi ngờ, phản đối quyết liệt, anh đã tin theo Cụ Hồ?”. Anh Hoàng Nghinh nói:”Khi mình nhận được tín hiệu quyết tâm bảo vệ độc lập của ông Cụ thì mình tin theo.”
Tôi mong các nhà lãnh đạo hiện nay học tập Hồ Chí Minh đức khiêm tốn và tỉnh táo soát xét lại xem vì sao đường lối xử lý mối quan hệ Việt Trung của mình gây cho nhân dân sự nghi ngờ ngày càng nghiêm trọng? Nếu liệt kê ra những điều diễn ra nhiều năm qua thì dài lắm. Chỉ xin đơn cử chuyện mới nhất là cơ quan truyền thông chính thức phát ngôn của Chính phủ, Thông tấn xã Việt Nam tường thuật cuộc biểu tình ngày 5-6-2011 bị phản ứng mạnh mẽ để từ đó có thể rút ra nhiều điều :
Lẽ ra chỉ cần rút tít “Biểu tình phản đối Trung Quốc xâm phạm thềm lục địa Viêt Nam” là rõ TTX VN cắt bỏ 7 từ nói rõ lý do cuộc biểu tình (mà tất cả Cơ quan truyền thông trên thế giới đều đưa đầy đủ như thế) để có lý do hùng hồn bác bỏ: ”Đó là thông tin sai sự thật”! Thật là tự mình dựng đứng ra để có cớ mà bác bỏ nhằm vừa lòng ai vậy? Điều quan trọng nhất là bản tin TTX VN cố tình thu nhỏ cuộc biểu tình: ”có một số ít người” và tìm cách chứng minh rằng vốn có một khoảng cách giữa Nhà nước với nhân dân Việt Nam trong thái độ với nhà cầm quyền Trung Quốc như: “Tự phát tụ tập", "đi ngang qua”, rồi “Sau khi được các đoàn thể, các cơ quan chức năng của Việt Nam giải thích, họ đã tự giải tán ra về”. Hiểu thế nào đây về cái ”ý tại ngôn ngoại”, nội dung sự giải thích sáng ngời chân lý của các cơ quan chức năng Việt Nam đã khiến những người biểu tình thấy ra sai lầm “tự giải tán, ra về”!
Người dân Việt Nam có nên coi bản tin TTXVN nói trên chính là thể hiện trung thực quan điểm của Chính phủ Việt Nam? Nếu bản tin đó trái với quan điểm chính thống thì cần có ít nhất là sự đính chính, đúng ra là Chính phủ phải có kỷ luật đối với Tổng giám đốc, lãnh đạo TTXVN để tìm lại sự yên dân mà họ đã làm hỏng do đưa ra bản tin tệ hại đó!
Có ý kiến cho rằng, những người biểu tình phải tự hiểu rằng, dù có bị ngăn chặn, cản trở, nhưng đã không bị đàn áp như hồi năm 2007 là do đã có sự thay đổi theo hướng cởi mở, mở cửa ngầm của Chính phủ, nếu không thấy như vậy là chỉ biết phần mình,cá nhân mình. Liệu lập luận này có thích hợp để xây dựng mối quan hệ “Chính phủ và nhân dân cùng một ý chí” hay không? Những người chủ trương “mở cửa ngầm” nếu chịu khó đọc báo chí và phát ngôn của Bộ ngoại giao Trung Quốc sẽ thấy họ không hề vì thế mà khen lãnh đạo Việt Nam, họ vẫn lớn tiếng chê trách Chính phủ Việt Nam đã không tiếp tục đàn áp người biểu tình chống Trung Quốc xâm lược như hồi 2007. Vậy Chính phủ Việt Nam chỉ có một lựa chọn duy nhất mà mọi Chính phủ của dân, do dân, vì dân trên thế giới đều phải lựa chọn, là công khai minh bạch chủ trương đúng đắn của mình, tôn trọng nhân dân có quyền thể hiên lòng yêu nước của mình trước ngoại bang gây hấn xâm phạm Tổ quốc. Nếu làm trái lại thì mối nghi ngờ vốn đã có, sẽ ngày càng nẫy nở vô cùng nguy hiểm trong tình thế hôm nay.
Vừa qua, đại diện Ban biên tập báo Thanh Niên có thư gửi giáo sư Trần Hữu Dũng thanh minh rằng “về sự kiện 26-5, do vậy, ý tướng Vịnh là Việt Nam sẵn sàng giải quyết song phương vụ va chạm đó với Trung Quốc thôi, chứ không phải toàn bộ vấn đề Biển Đông”. Giáo sư Trần Hữu Dũng đã công bố lá thư thanh minh này “để rộng đường dư luận”. Tôi muốn nêu câu hỏi: Vì sao giáo sư Trần Hữu Dũng có thể “hiểu nhầm” chuyện quan trọng này?
Theo tôi nghĩ, những người có trách nhiệm của Chính phủ ta chưa thực hiện công khai minh bạch nhiều vấn đề cốt lõi của sự việc. Vừa qua nhà báo Mạc Lâm hỏi tôi nhận định thế nào về cuộc đối thoại Shangri-La, tôi đáp, vì tôi không được đọc nguyên văn đối thoại giữa tướng Phùng Quang Thanh và Lương Quang Liệt nên không dám có nhận định. Bởi vì, báo chí Trung Quốc bảo ở Đối thoại Shangri-La Việt Nam ông Phùng Quang Thanh “tỏ ra biết điều hơn”, “đã tán thành Trung, Việt song phương giải quyết bất đồng. ”Báo chí Việt Nam không hề bác bỏ phát ngôn trịch thượng và xuyên tạc ý kiến của Bộ trưởng và Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam. Do đó giáo sư Trần Hữu Dũng và người dân Việt Nam phải hiểu sao đây?
Khi cố gắng tìm đọc những phát ngôn của lãnh đạo Việt nam nơi này nơi khác để hiểu sự thật thì cảm thấy nhiều nghi vấn lại phình to ra! Ví dụ, bài trả lời của Thứ trưởng Vịnh với VTCNews có nhiều điểm làm cho người đọc không thể xác định rõ lập trường của Việt Nam về chủ quyền biển đảo. Xin nêu vài ví du trong rất nhiều điều mù mờ:
- “không ai có quyền tài phán ở các khu vực tranh chấp”: Người đọc Việt Nam cho rằng nói câu này là mắc bẫy Trung quốc, bởi vì quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa họ đều tuyên bố thuộc chủ quyền của họ, cả nơi hoạt động của tàu Bình Minh 2 và tàu Viking 2 cũng đều nằm trong “lưỡi bò” thuộc chủ quyền không thể chối cãi của họ. Sao Việt Nam dám tuyên bố quyền tài phán ở vùng xảy ra Bình Minh 2 và Viking 2?
- “Nhưng trước hết và sau cùng vẫn là giải quyết với Trung Quốc. Và vì vậy sự lựa chọn của Đảng và Nhà nước ta là sẽ giải quyết được vấn đề, dù là rất lâu dài”: Người đọc Việt Nam thực sự lo âu với cái sách lược đặt tương lai ở cuối đường hầm mờ mịt của cái sự “rất lâu dài”!
Quần đảo Hoàng Sa là vấn đề song phương giữa ta và Trung Quốc.
Thế thì chỉ tính từ khi ta và họ thiết lập quan hệ trên cơ sở “!6 chữ vàng” cũng đã hơn 20 năm, chúng ta đã bao giờ bàn bạc song phương để tháo gỡ mắc míu lớn ngăn cản sự phát triển lòng tin cậy giữa hai dân tộc? Ta có đủ căn cứ lịch sử ít lắm là từ triều Nguyễn và tại Hội nghị đi tới Hòa ước San Francisco năm 1951, khi ông Trần văn Hữu thay mặt Việt Nam tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa, thì hơn 50 đại diện của các quốc gia tham dự, kể cả người đại diện của Bắc Kinh đã không hề phản đối. Vậy lẽ ra nếu theo thông lệ quốc tế thì khi bị chiếm bằng vũ lực lãnh thổ của nước mình, người ta đã có thể phản ứng bằng việc công bố Sách đen về hành động xâm lược; Thế mà chúng ta cho đến nay, vì sao chúng ta không thể công bố một Sách trắng về chủ quyền Hoàng Sa của mình?
Tóm lại bài học thứ nhất của Cụ Hồ cho những người lãnh đạo hôm nay là muốn nhân dân tin theo, tạo nên nguồn sức mạnh vô địch trước kẻ thù thì phải có đường lối yêu nước rõ ràng và phải tôn trọng nhân dân. Đối ngoại cũng như đối nội phải minh bạch thì mới có thể dựa vững chắc vào sự hậu thuẫn của nhân dân.
Bài học thứ hai của Cụ Hồ là nếu tôn trọng nhân dân thì phải thể hiện ở việc thực hiên dân chủ. Mấy năm nay, nhiều người nhắc đến Hiến pháp 1946 cho rằng đó là bản Hiến pháp tuy còn một số hạn chế, nhưng đã là bản Hiến pháp dân chủ so với các bản Hiến pháp sửa đổi về sau. Cần biết rằng Ban soạn thảo Hiến pháp 1946 gồm có 11 người, phần lớn là nhân sĩ, có người thuộc đảng phái khác như Phạm Gia Đỗ đảng viên Quốc dân đảng. Trong buổi họp Quốc hội công bố Dự thảo Hiến pháp đã có sự phản biên rất sôi nổi thẳng thắn của đại điện các đảng phái như: Hồ Đức Thành đại diện Việt Nam cách mạng đồng minh hội, Trần Trung Dung, Quốc dân đảng… Khi biểu quyết có hai phiếu chống là Nguyễn Sơn Hà cho rằng Hiến pháp thiếu sự ghi nhận quyền tự do kinh doanh; Phạm Gia Đỗ thì cho rằng cần phải thực hiện chế độ hai Viện. Dù vậy Hiến pháp đã được thông qua với số phiếu cao thể hiện trí tuệ và nguyện vọng của nhân dân buổi “lập quyền dân” năm thứ nhất. Nhiều nhân sĩ trong quốc hội khóa 1 đã dũng cảm đi vào cuộc kháng chiến, có người như cụ Nguyễn văn Tố, Trưởng ban thường vụ Quốc hội đầu tiên bị giặc Pháp bắt, đã anh dũng hi sinh năm 1947. Trưởng ban thường vụ Quốc hội thứ 2 là cụ Bùi Bằng Đoàn, nổi tiếng với những bài thơ xướng họa với Cụ Hồ làm nức lòng nhân sĩ yêu nước thời chống Pháp.
Hiện nay, có một lập luận rất sai nhưng được phổ biến rộng rãi và dai dẳng là: Nếu Đảng cộng sản thực hiện dân chủ thì không bị mất nước, nhưng sẽ mất Đảng; Còn nếu ngược lại thì không mất Đảng, nhưng sẽ mất nước. Vế thứ hai này đúng, nhưng phải nói thêm là “còn, nhưng mang nỗi nhục”) Ôn lại bài học lịch sử từ Hồ Chí Minh sẽ hoàn toàn bác bỏ lập luận thiển cận nói trên. Thực hiện dân chủ, tôn trọng quyền dân, xây dựng một Chính phủ thực sự của dân, do dân, vì dân, chấp nhận phản biện, sẽ khơi dậy mạnh mẽ trí và lực Việt Nam, gắn bó chặt chẽ Chính phủ với nhân dân trong cùng một ý chí chống ngoại xâm. Đó là kế sách trường tồn cho Đảng và dân tộc. Ngược lại là sự tự hủy diệt trước quân thù!
Ngày 10-6-2011
TVC
Tác giả gửi tới Dân Luận
Trước đó một ngày, 8-6-2011, tại thành phố Nha Trang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có bài phát biểu với tiêu đề Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo và các hoạt động kinh tế biển. Tôi rất tâm đắc nhận định này của ông: “CHÚNG TA ĐANG ĐỨNG TRƯỚC NHIỀU THÁCH THỨC GAY GẮT VỀ BẢO VỆ BIỂN ĐẢO, VỀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG BIỂN”. Thủ tướng đề ra 6 biên pháp quan trọng để khắc phục các thách thức gay gắt nói trên mà việc số 1 là “Tiếp tục khẳng định manh mẽ và thể hiện ý chí quyết tâm cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong việc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển và hải đảo của Tổ quốc”. Thông cảm với Thủ tướng và Chính phủ trong cuộc đấu tranh để vượt qua thách thức gay gắt hôm nay, tôi lại bỗng nhớ đến thách thức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc ta phải đương đầu năm 1945-1946. Có lẽ thách thức ngày ấy lớn hơn, phức tạp hơn, thù trong giặc ngoài hùng hổ hơn, thế và lực của chúng ta yếu hơn hôm nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa kiên định nguyên tắc vừa uyển chuyển sách lược, nhằm xây dựng nên mối quan hệ CHÍNH PHỦ VÀ NHÂN DÂN CÙNG MỘT Ý CHÍ BẢO VỆ NỀN ĐỘC LẬP.
Chúng ta đều nhớ lá thư Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ trước khi lên đường sang Pháp đàm phán hòa bình có câu “Hồ Chí Minh không phải là người bán nước”. Một người bao năm bôn ba vì nước, vào tù ra tội, mang án tử hình vắng mặt, vậy mà đã phải nói những lời thanh minh với đồng bào mình như vậy đấy! Khi Đoàn Việt Nam tới Paris, Tổng thư ký Công đoàn lính thợ Việt Nam ở Pháp là anh Hoàng Nghinh đã tổ chức một cuộc biểu tình với nhiều khẩu hiệu phản đối việc thương lượng với Pháp. Hồ Chủ Tịch đã có nhiều cuộc tiếp xúc với Việt kiều để nói cho đồng bào hiểu rõ quan điểm, sách lược của Chính phủ. Hội nghị Fontainebleau thất bại, Hồ Chủ Tịch về nước. Tổng thư ký Hoàng Nghinh nói với đoàn viên Công đoàn lính thợ: ”Chúng mình đã hiểu nhầm Hồ Chí Minh. Tất cả hãy tìm đường về nước đi theo ông Cụ kháng chiến giành độc lập”. Do có lý lịch tổ chức phản đối Cụ Hồ ở Pháp mà anh Hoàng Nghinh đã bị những người sắp xếp tổ chức đố kỵ, con đường “hoạn lộ” của anh luôn luôn đi xuống: Từ chỗ là trưởng Ban quốc tế của Tổng Liên đoàn Lao động VN, bị hạ xuống Trưởng ban quốc tế của báo Lao Động, rồi sau cùng xuống làm phóng viên thường trú ở vùng “túi bom” Quảng Bình, Vĩnh Linh. Dù vậy, anh luôn lạc quan dũng cảm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Có lần tôi hỏi anh Hoàng Nghinh: ”Vì sao từ chỗ nghi ngờ, phản đối quyết liệt, anh đã tin theo Cụ Hồ?”. Anh Hoàng Nghinh nói:”Khi mình nhận được tín hiệu quyết tâm bảo vệ độc lập của ông Cụ thì mình tin theo.”
Tôi mong các nhà lãnh đạo hiện nay học tập Hồ Chí Minh đức khiêm tốn và tỉnh táo soát xét lại xem vì sao đường lối xử lý mối quan hệ Việt Trung của mình gây cho nhân dân sự nghi ngờ ngày càng nghiêm trọng? Nếu liệt kê ra những điều diễn ra nhiều năm qua thì dài lắm. Chỉ xin đơn cử chuyện mới nhất là cơ quan truyền thông chính thức phát ngôn của Chính phủ, Thông tấn xã Việt Nam tường thuật cuộc biểu tình ngày 5-6-2011 bị phản ứng mạnh mẽ để từ đó có thể rút ra nhiều điều :
Lẽ ra chỉ cần rút tít “Biểu tình phản đối Trung Quốc xâm phạm thềm lục địa Viêt Nam” là rõ TTX VN cắt bỏ 7 từ nói rõ lý do cuộc biểu tình (mà tất cả Cơ quan truyền thông trên thế giới đều đưa đầy đủ như thế) để có lý do hùng hồn bác bỏ: ”Đó là thông tin sai sự thật”! Thật là tự mình dựng đứng ra để có cớ mà bác bỏ nhằm vừa lòng ai vậy? Điều quan trọng nhất là bản tin TTX VN cố tình thu nhỏ cuộc biểu tình: ”có một số ít người” và tìm cách chứng minh rằng vốn có một khoảng cách giữa Nhà nước với nhân dân Việt Nam trong thái độ với nhà cầm quyền Trung Quốc như: “Tự phát tụ tập", "đi ngang qua”, rồi “Sau khi được các đoàn thể, các cơ quan chức năng của Việt Nam giải thích, họ đã tự giải tán ra về”. Hiểu thế nào đây về cái ”ý tại ngôn ngoại”, nội dung sự giải thích sáng ngời chân lý của các cơ quan chức năng Việt Nam đã khiến những người biểu tình thấy ra sai lầm “tự giải tán, ra về”!
Người dân Việt Nam có nên coi bản tin TTXVN nói trên chính là thể hiện trung thực quan điểm của Chính phủ Việt Nam? Nếu bản tin đó trái với quan điểm chính thống thì cần có ít nhất là sự đính chính, đúng ra là Chính phủ phải có kỷ luật đối với Tổng giám đốc, lãnh đạo TTXVN để tìm lại sự yên dân mà họ đã làm hỏng do đưa ra bản tin tệ hại đó!
Có ý kiến cho rằng, những người biểu tình phải tự hiểu rằng, dù có bị ngăn chặn, cản trở, nhưng đã không bị đàn áp như hồi năm 2007 là do đã có sự thay đổi theo hướng cởi mở, mở cửa ngầm của Chính phủ, nếu không thấy như vậy là chỉ biết phần mình,cá nhân mình. Liệu lập luận này có thích hợp để xây dựng mối quan hệ “Chính phủ và nhân dân cùng một ý chí” hay không? Những người chủ trương “mở cửa ngầm” nếu chịu khó đọc báo chí và phát ngôn của Bộ ngoại giao Trung Quốc sẽ thấy họ không hề vì thế mà khen lãnh đạo Việt Nam, họ vẫn lớn tiếng chê trách Chính phủ Việt Nam đã không tiếp tục đàn áp người biểu tình chống Trung Quốc xâm lược như hồi 2007. Vậy Chính phủ Việt Nam chỉ có một lựa chọn duy nhất mà mọi Chính phủ của dân, do dân, vì dân trên thế giới đều phải lựa chọn, là công khai minh bạch chủ trương đúng đắn của mình, tôn trọng nhân dân có quyền thể hiên lòng yêu nước của mình trước ngoại bang gây hấn xâm phạm Tổ quốc. Nếu làm trái lại thì mối nghi ngờ vốn đã có, sẽ ngày càng nẫy nở vô cùng nguy hiểm trong tình thế hôm nay.
Vừa qua, đại diện Ban biên tập báo Thanh Niên có thư gửi giáo sư Trần Hữu Dũng thanh minh rằng “về sự kiện 26-5, do vậy, ý tướng Vịnh là Việt Nam sẵn sàng giải quyết song phương vụ va chạm đó với Trung Quốc thôi, chứ không phải toàn bộ vấn đề Biển Đông”. Giáo sư Trần Hữu Dũng đã công bố lá thư thanh minh này “để rộng đường dư luận”. Tôi muốn nêu câu hỏi: Vì sao giáo sư Trần Hữu Dũng có thể “hiểu nhầm” chuyện quan trọng này?
Theo tôi nghĩ, những người có trách nhiệm của Chính phủ ta chưa thực hiện công khai minh bạch nhiều vấn đề cốt lõi của sự việc. Vừa qua nhà báo Mạc Lâm hỏi tôi nhận định thế nào về cuộc đối thoại Shangri-La, tôi đáp, vì tôi không được đọc nguyên văn đối thoại giữa tướng Phùng Quang Thanh và Lương Quang Liệt nên không dám có nhận định. Bởi vì, báo chí Trung Quốc bảo ở Đối thoại Shangri-La Việt Nam ông Phùng Quang Thanh “tỏ ra biết điều hơn”, “đã tán thành Trung, Việt song phương giải quyết bất đồng. ”Báo chí Việt Nam không hề bác bỏ phát ngôn trịch thượng và xuyên tạc ý kiến của Bộ trưởng và Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam. Do đó giáo sư Trần Hữu Dũng và người dân Việt Nam phải hiểu sao đây?
Khi cố gắng tìm đọc những phát ngôn của lãnh đạo Việt nam nơi này nơi khác để hiểu sự thật thì cảm thấy nhiều nghi vấn lại phình to ra! Ví dụ, bài trả lời của Thứ trưởng Vịnh với VTCNews có nhiều điểm làm cho người đọc không thể xác định rõ lập trường của Việt Nam về chủ quyền biển đảo. Xin nêu vài ví du trong rất nhiều điều mù mờ:
- “không ai có quyền tài phán ở các khu vực tranh chấp”: Người đọc Việt Nam cho rằng nói câu này là mắc bẫy Trung quốc, bởi vì quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa họ đều tuyên bố thuộc chủ quyền của họ, cả nơi hoạt động của tàu Bình Minh 2 và tàu Viking 2 cũng đều nằm trong “lưỡi bò” thuộc chủ quyền không thể chối cãi của họ. Sao Việt Nam dám tuyên bố quyền tài phán ở vùng xảy ra Bình Minh 2 và Viking 2?
- “Nhưng trước hết và sau cùng vẫn là giải quyết với Trung Quốc. Và vì vậy sự lựa chọn của Đảng và Nhà nước ta là sẽ giải quyết được vấn đề, dù là rất lâu dài”: Người đọc Việt Nam thực sự lo âu với cái sách lược đặt tương lai ở cuối đường hầm mờ mịt của cái sự “rất lâu dài”!
Quần đảo Hoàng Sa là vấn đề song phương giữa ta và Trung Quốc.
Thế thì chỉ tính từ khi ta và họ thiết lập quan hệ trên cơ sở “!6 chữ vàng” cũng đã hơn 20 năm, chúng ta đã bao giờ bàn bạc song phương để tháo gỡ mắc míu lớn ngăn cản sự phát triển lòng tin cậy giữa hai dân tộc? Ta có đủ căn cứ lịch sử ít lắm là từ triều Nguyễn và tại Hội nghị đi tới Hòa ước San Francisco năm 1951, khi ông Trần văn Hữu thay mặt Việt Nam tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa, thì hơn 50 đại diện của các quốc gia tham dự, kể cả người đại diện của Bắc Kinh đã không hề phản đối. Vậy lẽ ra nếu theo thông lệ quốc tế thì khi bị chiếm bằng vũ lực lãnh thổ của nước mình, người ta đã có thể phản ứng bằng việc công bố Sách đen về hành động xâm lược; Thế mà chúng ta cho đến nay, vì sao chúng ta không thể công bố một Sách trắng về chủ quyền Hoàng Sa của mình?
Tóm lại bài học thứ nhất của Cụ Hồ cho những người lãnh đạo hôm nay là muốn nhân dân tin theo, tạo nên nguồn sức mạnh vô địch trước kẻ thù thì phải có đường lối yêu nước rõ ràng và phải tôn trọng nhân dân. Đối ngoại cũng như đối nội phải minh bạch thì mới có thể dựa vững chắc vào sự hậu thuẫn của nhân dân.
Bài học thứ hai của Cụ Hồ là nếu tôn trọng nhân dân thì phải thể hiện ở việc thực hiên dân chủ. Mấy năm nay, nhiều người nhắc đến Hiến pháp 1946 cho rằng đó là bản Hiến pháp tuy còn một số hạn chế, nhưng đã là bản Hiến pháp dân chủ so với các bản Hiến pháp sửa đổi về sau. Cần biết rằng Ban soạn thảo Hiến pháp 1946 gồm có 11 người, phần lớn là nhân sĩ, có người thuộc đảng phái khác như Phạm Gia Đỗ đảng viên Quốc dân đảng. Trong buổi họp Quốc hội công bố Dự thảo Hiến pháp đã có sự phản biên rất sôi nổi thẳng thắn của đại điện các đảng phái như: Hồ Đức Thành đại diện Việt Nam cách mạng đồng minh hội, Trần Trung Dung, Quốc dân đảng… Khi biểu quyết có hai phiếu chống là Nguyễn Sơn Hà cho rằng Hiến pháp thiếu sự ghi nhận quyền tự do kinh doanh; Phạm Gia Đỗ thì cho rằng cần phải thực hiện chế độ hai Viện. Dù vậy Hiến pháp đã được thông qua với số phiếu cao thể hiện trí tuệ và nguyện vọng của nhân dân buổi “lập quyền dân” năm thứ nhất. Nhiều nhân sĩ trong quốc hội khóa 1 đã dũng cảm đi vào cuộc kháng chiến, có người như cụ Nguyễn văn Tố, Trưởng ban thường vụ Quốc hội đầu tiên bị giặc Pháp bắt, đã anh dũng hi sinh năm 1947. Trưởng ban thường vụ Quốc hội thứ 2 là cụ Bùi Bằng Đoàn, nổi tiếng với những bài thơ xướng họa với Cụ Hồ làm nức lòng nhân sĩ yêu nước thời chống Pháp.
Hiện nay, có một lập luận rất sai nhưng được phổ biến rộng rãi và dai dẳng là: Nếu Đảng cộng sản thực hiện dân chủ thì không bị mất nước, nhưng sẽ mất Đảng; Còn nếu ngược lại thì không mất Đảng, nhưng sẽ mất nước. Vế thứ hai này đúng, nhưng phải nói thêm là “còn, nhưng mang nỗi nhục”) Ôn lại bài học lịch sử từ Hồ Chí Minh sẽ hoàn toàn bác bỏ lập luận thiển cận nói trên. Thực hiện dân chủ, tôn trọng quyền dân, xây dựng một Chính phủ thực sự của dân, do dân, vì dân, chấp nhận phản biện, sẽ khơi dậy mạnh mẽ trí và lực Việt Nam, gắn bó chặt chẽ Chính phủ với nhân dân trong cùng một ý chí chống ngoại xâm. Đó là kế sách trường tồn cho Đảng và dân tộc. Ngược lại là sự tự hủy diệt trước quân thù!
Ngày 10-6-2011
TVC
Tác giả gửi tới Dân Luận